Osho - Thuyền rỗng
Chương 2: Con người của Đạo
Con người của Đạo hành động không cản trở
Không làm hại người khác bằng hành động của mình
vậy mà người đó không biết mình là tốt bụng và tử tế
Người đó không tranh giành làm tiền,
và người đó không tạo ra đức hạnh từ nghèo khó.
Người đó đi con đường của mình không dựa vào kẻ khác,
và không tự hào mình đi một mình
Con người của Đạo vẫn còn vô danh
Đức hạnh hoàn hảo tạo ra cái không.
Vô ngã mới là cái ngã thật
Và người vĩ đại nhất là không ai cả
Điều khó khăn nhất, điều gần như là không thể được nhất đối với tâm trí chính
là vẫn còn ở giữa, chính là vẫn duy trì được cân bằng, còn chuyển từ điều này
sang phía đối diện của nó là dễ nhất. Chuyển từ cực này sang cực đối diện là
bản chất của tâm trí. Điều này phải được hiểu rất sâu sắc vì chừng nào bạn chưa
hiểu được điều này, chẳng cái gì có thể dẫn bạn tới thiền được.
Bản
chất của tâm trí là di chuyển từ cực điểm nọ sang cực điểm kia. Nó phụ thuộc
vào sự mất cân bằng, nếu bạn đang cân bằng, tâm trí biến mất. Tâm trí hệt như
bệnh tật, khi bạn quân bình, bệnh không có đấy.
Đó
là lí do tại sao người ăn quá nhiều lại dễ nhịn ăn. Điều ấy có vẻ phi logic bởi
vì chúng ta nghĩ rằng một người bị ám ảnh bởi thức ăn thì không thể nào cứ nhịn
ăn được. Nhưng bạn nhầm, chỉ người nào bị ám ảnh với thức ăn mới có thể nhịn ăn
được, bởi vì nhịn ăn cũng lại là một loại ám ảnh nhưng theo hướng ngược lại
thôi. Điều ấy không thực sự làm thay đổi bản thân bạn, bạn vẫn bị ám ảnh bởi
thức ăn. Trước đây ăn quá nhiều, bây giờ lại chịu đói nhưng tâm trí cứ tập
trung vào thức ăn từ cực đối lập kia.
Người
quá ham mê về dục có thể trở thành người độc thân rất dễ dàng, chẳng có vấn đề
gì cả. Nhưng thật khó cho tâm trí để đi đến đúng chế độ, thật khó cho tâm trí
để duy trì ở chính giữa.
Tại
sao khó duy trì ở chính giữa ? Điều đó cũng như là con lắc đồng hồ vậy. Con lắc
của đồng hồ đi sang phải, rồi nó lại chuyển sang trái, rồi nó lần nữa lại
chuyển sang phải, rồi nó lại chuyển sang trái; toàn bộ đồng hồ phải phụ thuộc
vào chuyển động này. Nếu con lắc dừng ở chính giữa thì đồng hồ sẽ dừng lại. Và
khi con lắc đi sang phải, bạn nghĩ rằng nó chỉ đi sang bên phải, nhưng đồng
thời nó thu được đà để đi sang trái. Nó càng chuyển sang phải, nó lại càng thu
nhiều năng lượng để chuyển sang trái, sang phía đối lập. Khi nó chuyển sang
trái, nó lại thu được đà để chuyển sang phải.
Bất
kì khi nào bạn ăn quá nhiều, bạn cũng đã thu được đà để nhịn ăn. Bất kì khi nào
bạn quá say mê về dục, chẳng chóng thì chầy, brahmacharya, độc
thân sẽ hấp dẫn bạn.
Và
cùng điều như thế đang xảy ra ở cực đối lập. Bạn cứ đi hỏi cái gọi là các
thánh nhân, các khất sĩ, các sannyasin của bạn mà xem. Họ đã làm cho vấn đề đi
đến điểm là độc thân, bây giờ thì tâm trí của họ lại đang thu thập đà để chuyển
vào trong dục. Họ đã đi đến một điểm là trở nên đói và chết đói, và rồi tâm trí
của họ thường xuyên nghĩ đến thức ăn. Khi bạn đang nghĩ về thức ăn quá nhiều,
điều đó chỉ ra rằng bạn đang thu thập đà cho nó. Việc nghĩ có nghĩa là cái đà.
Tâm trí bắt đầu sắp xếp cho cái đối lập.
Một
điều: bất kì khi nào bạn di chuyển bạn cũng di chuyển sang phía đối lập. Phía
đối lập bị dấu kín, nó còn chưa hiện rõ ra.
Khi
bạn yêu một người, ấy là bạn đang thu thập đà để ghét người đó. Đấy là lí do
tại sao chỉ bạn bè mới có thể trở thành kẻ thù được. Bạn không thể bỗng nhiên
trở thành thù được chừng nào trước hết bạn còn chưa trở thành bạn. Những người
yêu cãi nhau, lục đục. Chỉ những người yêu mới có thể cãi nhau và lục đục, bởi
vì chừng nào bạn chưa yêu, làm sao bạn có thể ghét được? Chừng nào
bạn còn chưa chuyển xa sang cực trái, làm sao bạn có thể chuyển sang phải được?
Nghiên cứu hiện đại nói rằng: cái gọi là tình yêu thực chất chỉ là quan hệ giữa
những kẻ thù thân thiết thôi. Vợ bạn chính là kẻ thù thân thiết của bạn,
chồng bạn là kẻ thù thân thiết của bạn - cả hai vừa thân thiết vừa đối
địch. Họ dường như là đối lập, phi logic, bởi vì chúng ta vẫn tự hỏi vì sao một
người đang thân thiết thế lại có thể trở thành kẻ thù được; một người đang là
bạn bè, làm sao người đó lại trở thành kẻ thù?
Logic
là nông cạn, cuộc sống đi sâu hơn, và trong cuộc sống tất cả các phía đối lập
đều hợp lại với nhau, chúng cùng tồn tại với nhau. Nhớ lấy, điều này, bởi vì
thế thì thiền mới trở thành cân bằng.
Phật
đã dạy tám kỉ luật, và với mỗi kỉ luật ông ấy đã dùng một từ chính. Ông ấy nói:
chính tinh tấn, bởi vì rất dễ chuyển từ hành động sang không hành động, từ thức
sang ngủ, nhưng duy trì ở giữa là khó. Khi Phật dùng từ chính, tức là ông ấy
đang nói: đừng chuyển sang phía đối lập, cứ ở chính giữa. Ăn đúng - ông ấy chưa
bao giờ nói đến nhịn ăn cả. Đừng quá mê say trong ăn quá nhiều, cũng đừng quá
mê say trong nhịn ăn. Ông ấy nói: ăn đúng. Ăn đúng nghĩa là đứng ở điểm giữa.
Khi
bạn đang đứng ở điểm giữa, bạn không thu thập bất kì đà nào, và đây chính là
cái đẹp của nó - một người không thu thập bất kì đà nào để đi đâu cả, có thể
thoải mái với chính mình, có thể ở nhà.
Bạn
có thể chẳng bao giờ ở nhà cả, bởi vì bất kì cái gì bạn làm, bạn ngay lập tức
sẽ phải làm cái đối lập cho cân bằng. Và cái đối lập chẳng bao giờ cân bằng hết
cả, nó đơn giản cho bạn ấn tượng rằng bạn đang trở nên cân bằng, nhưng bạn sẽ
lại phải chuyển sang cái đối lập lần nữa.
Một
Phật thì chẳng là bạn của bất kì ai, nhưng cũng chẳng là kẻ thù. Người đó đơn
giản đứng lại ở giữa - chiếc đồng hồ không vận hành.
Người
ta thường kể về một nhà huyền học của phái Hassid, tên là Muzheed, rằng là khi
ông này đạt tới chứng ngộ, bỗng nhiên chiếc đồng hồ trên tường nhà ông ấy dừng
lại. Điều ấy thì có thể xảy ra, cũng có thể không xảy ra, bởi vì đấy là
một khả năng, nhưng tính biểu tượng là rõ ràng: khi tâm trí bạn dừng lại, thời
gian dừng lại; khi con lắc dừng lại, đồng hồ dừng lại. Từ đó trở đi thì chiếc
đồng hồ đó không bao giờ chạy nữa, từ đó trở đi nó bao giờ cũng chỉ cùng một
giờ.
Thời
gian được tạo ra do chuyển động của tâm trí, cũng giống hệt như chuyển động của
con lắc vậy. Tâm trí chuyển động, bạn cảm thấy thời gian. Khi tâm trí không
chuyển động, làm sao bạn cảm thấy thời gian được? Khi không có chuyển
động, không thể cảm thấy thời gian được. Các nhà khoa học và các nhà huyền học
đều đồng ý về điểm này: rằng là chuyển động tạo ra hiện tượng thời gian. Nếu
bạn không chuyển động, nếu bạn tĩnh lặng, thời gian biến mất, cái vĩnh hằng đi
vào trong sự tồn tại.
Chiếc
đồng hồ của bạn chạy nhanh, và cơ chế của nó đang chuyển động từ cực đoan này
sang cực đoan khác.
Điều
thứ hai cần phải hiểu về tâm trí là ở chỗ tâm trí bao giờ cũng ao ước xa cách,
chẳng bao giờ mong ước gần gũi cả. Cái gần gũi đem lại cho bạn chán chường, bạn
phát ngán với nó; cái xa cách cho bạn mơ ước, hi vọng, khả năng để hài lòng.
Cho nên tâm trí bao giờ cũng nghĩ đến xa cách. Vợ của một ai đó khác bao giờ
cũng hấp dẫn, đẹp đẽ; nhà của ai đó khác bao giờ cũng ám ảnh bạn; xe ô tô của
ai đó khác làm bạn mê mẩn. Điều đó bao giờ cũng là xa cách. Bạn mù với cái gần
gũi. Tâm trí không thể thấy được cái ở rất gần. Nó chỉ có thể thấy được cái ở
rất xa.
Thế
những cái xa nhất, cái xa xôi nhất thì sao? Cái đối lập là xa cách nhất. Bạn
yêu một người - bây giờ thì ghét là hiện tượng xa cách nhất; bạn ăn quá nhiều -
bây giờ nhịn ăn là hiện tượng xa cách nhất; bạn độc thân - bây giờ dục là hiện
tượng xa cách nhất; bạn đang là vua - bây giờ việc là sư là xa cách nhất.
Cái
xa cách nhất chính là điều mơ mộng nhất. Nó hấp dẫn, nó ám ảnh, nó cứ vẫy gọi,
mời mọc bạn, và thế rồi khi bạn đã đạt tới cực kia, chỗ mà từ đó bạn đã đi, lần
nữa lại trở thành đẹp. Li dị vợ bạn, và sau vài năm, vợ bạn lại trở nên đẹp.
Một
nữ diễn viên điện ảnh đến gặp tôi. Cô ấy đã li dị với chồng mười lăm năm trước.
Bây giờ thì cô ấy cũng già rồi, kém đẹp hơn hồi cô ấy cùng với chồng, cô ấy đã
li thân. Con của họ cũng đã xây dựng gia đình hồi năm ngoái, cho nên tại đám
cưới, cô ấy gặp lại người chồng cũ, và họ lại cùng đi du lịch với nhau. Người
chồng lại cảm thấy yêu cô ấy một lần nữa, cho nên cô ấy đến tôi và hỏi, “Tôi
phải làm gì đây? Bây giờ anh ấy lại đề nghị cưới lần nữa, anh ấy muốn cưới tôi
lần nữa.”
Cô
ấy vẫn còn quyến rũ. Cô ấy chỉ chờ đợi tôi nói có. Tôi nói, “Nhưng các bạn đã
sống cùng nhau rồi, bao giờ cũng có xung đột và chẳng có gì khác cả. Tôi
biết toàn bộ câu chuyện này - các bạn lục đục thế nào, cãi nhau thế nào, các
bạn tạo ra địa ngục và khổ lẫn cho nhau như thế nào, bây giờ lại thế nữa à…?”
Với
tâm trí, cái đối lập có từ lực, và chừng nào qua hiểu biết bạn còn chưa siêu
việt lên trên điều này, tâm trí vẫn cứ chuyển từ trái sang phải, từ phải sang
trái, và đồng hồ vẫn cứ tiếp tục chạy.
Điều
đó đã liên tục trong nhiều kiếp sống rồi, và đây là cách thức bạn đã lừa dối
chính mình - bởi vì bạn không hiểu được cơ chế này. Một lần nữa xa cách lại trở
nên vẫy gọi, một lần nữa bạn lại bắt đầu du hành. Khoảnh khắc bạn đạt được mục
tiêu của mình, cái bạn đã quen thuộc với nó rồi thì bây giờ lại là xa cách, bây
giờ lại có hấp dẫn, bây giờ lại trở thành ngôi sao, cái gì đó đáng giá.
Tôi
đã đọc về một phi công, người đã bay qua California cùng với với một người bạn.
Anh ta bảo với người bạn, “Nhìn xuống cái hồ đẹp kia kìa. Tớ đã được sinh ra
gần đó, đấy là làng của tớ.”
Anh
ta chỉ vào một cái làng nhỏ bé nằm cheo leo trên những mỏm đồi cạnh cái hồ, và
anh ta nói, “Tớ đã được sinh ra ở đấy. Khi tớ còn là một đứa trẻ tớ vẫn quen
ngồi ở gần cái hồ này và câu cá; câu cá là sở thích của tớ. Nhưng vào lúc
đó, khi tớ còn là đứa trẻ câu cá ở gần hồ, máy bay bao giờ cũng bay qua trên
trời, bay qua trên đầu, và tớ cứ mơ ước có ngày tớ trở thành phi công, tớ sẽ
lái máy bay. Đấy là mơ ước duy nhất của tớ. Bây giờ nó đã được hoàn thành rồi,
và khổ làm sao! Bây giờ tớ cứ liên tục nhìn xuống cái hồ và nghĩ về lúc tớ về
hưu, và lại đi câu cá lần nữa. Cái hồ ấy mới đẹp làm sao...”
Đây
là cách thức mọi việc xảy ra. Đây là cách thức mọi việc đang xảy ra cho bạn.
Trong tuổi thơ, bạn khao khát lớn lên thật nhanh bởi vì người lớn mạnh mẽ hơn.
Đứa trẻ khao khát lớn lên ngay lập tức. Người già khôn ngoan, còn đứa trẻ lại
cảm thấy rằng bất kì cái gì nó làm cũng đều sai cả. Và rồi hỏi ông già
xem - ông ấy bao giờ cũng nghĩ rằng khi tuổi niên thiếu mất đi rồi, mọi thứ
cũng mất theo; thiên đường có đó trong thời niên thiếu. Và tất cả mọi người già
đều chết đi trong việc nghĩ về thời niên thiếu, về sự hồn nhiên, về cái đẹp, về
vùng đất mơ.
Bất
kì cái gì bạn có cũng đều có vẻ vô dụng, bất kì cái gì bạn không có đều
có vẻ có ích. Nhớ lấy, điều này, nếu không thì thiền không thể xảy ra được, bởi
vì thiền có nghĩa là hiểu biết này về tâm trí, cách làm việc của tâm trí, chính
quá trình này của tâm trí.
Tâm
trí là biện chứng, nó làm cho bạn cứ chuyển động đi, chuyển động lại, hướng
sang phía đối lập. Và đây lại là quá trình vô tận: nó chẳng bao giờ kết thúc
chừng nào bạn còn chưa đột nhiên vứt bỏ nó, chừng nào bạn còn chưa
đột nhiên trở nên nhận biết về trò chơi này, chừng nào bạn còn chưa đột
nhiên trở nên nhận biết về cái mẹo mực này của tâm trí, và bạn dừng ngay giữa
chừng.
Việc
dừng lại ngay ở giữa chính là thiền.
Điều
thứ ba, bởi vì tâm trí là bao gồm các cực, cho nên bạn chẳng bao giờ là cái
toàn thể. Tâm trí không thể nào là cái toàn thể được; nó bao giờ cũng một nửa.
Khi bạn yêu ai đó bạn có quan sát rằng bạn đang kìm nén căm ghét của mình
không? Tình yêu là không toàn bộ, nó không phải là toàn thể, ngay sau nó thôi,
tất cả cái thế lực đen tối đều đang ẩn nấp đấy và chúng có thể bùng ra bất kì
lúc nào. Bạn vẫn đang ngồi trên núi lửa đấy.
Khi
bạn yêu ai đó, bạn đơn giản quên mất rằng bạn còn có giận dữ, bạn còn có căm
ghét, bạn có ghen tuông. Bạn đơn giản loại bỏ chúng dường như là chúng chưa bao
giờ tồn tại cả. Nhưng làm sao bạn có thể loại bỏ được chúng? Bạn chỉ có thể đơn
giản che giấu chúng trong vô thức. Ngay trên bề mặt bạn có thể trở thành việc
yêu, nhưng sâu bên trong thì hỗn loạn đang ẩn nấp. Chẳng chóng thì chầy bạn sẽ
chán ngấy, người được yêu sẽ trở thành quen thuộc.
Người
ta nói rằng quen thuộc nuôi dưỡng khinh miệt, nhưng không phải quen thuộc nuôi
dưỡng cho khinh miệt đâu - quen thuộc làm cho bạn phát chán, còn khinh miệt thì
bao giờ cũng có đấy rồi, giấu kín. Nó tới, nó đang đợi cho đến khi đúng lúc;
hạt mầm đã có đó rồi.
Tâm
trí bao giờ cũng có cái đối lập ở bên trong nó, và cái đối lập đó đi vào vô
thức, và đợi cho đến khoảnh khắc để nổi lên. Nếu bạn quan sát chăm chú, bạn sẽ
cảm thấy nó ở mọi khoảnh khắc. Khi bạn nói với ai đó, Anh yêu em, nhắm mắt lại,
thiền và cảm đi - có căm ghét nào ẩn kín đó không? Bạn sẽ cảm thấy nó. Nhưng
bởi vì bạn muốn tự lừa dối mình, bởi vì sự thật xấu thế - sự thật là bạn ghét
người bạn yêu, cho nên bạn không muốn đối diện với nó. Bạn muốn thoát ra
khỏi thực tại, cho nên bạn che giấu nó. Nhưng che giấu cũng chẳng có ích lợi
gì, bởi vì đấy không phải là lừa dối một ai đó khác, đấy là tự lừa dối mình.
Cho
nên bất kì khi nào bạn cảm thấy cái gì đó, nhắm mắt lại và đi vào trong bản
thân mình để tìm xem cái đối lập đang ở đâu đó. Nó đang có đấy. Và nếu bạn có
thể thấy được cái đối lập, điều đó sẽ cho bạn cân bằng, thế thì bạn sẽ không
nói, “Anh yêu em.” Nếu bạn là một người chân thành thì bạn sẽ nói, “Mối quan hệ
của anh với em là mối quan hệ của tình yêu và căm ghét”.
Tất
cả các mối quan hệ đều là mối quan hệ yêu/ghét. Không mối quan hệ nào là thuần
tuý yêu, và cũng không có mối quan hệ nào thuần tuý ghét. Nó là cả yêu và ghét.
Nếu bạn thật thà bạn sẽ gặp khó khăn. Nếu bạn nói với một cô gái “Mối quan hệ
của anh với em là cả yêu và ghét. Anh yêu em như là anh chưa bao giờ yêu bất kì
ai và anh ghét em như là chưa bao giờ ghét bất kì ai,” thì sẽ khó cho bạn để
lấy cô ấy trừ phi là bạn tìm được một cô gái có tính thiền sâu sắc, người có
thể hiểu được thực tại; trừ phi bạn có thể tìm ra được một người bạn có thể
hiểu được cái phức tạp này của tâm trí.
Tâm
trí không phải là cơ chế đơn giản, nó rất phức tạp, và qua tâm trí bạn chẳng
bao giờ có thể trở nên đơn giản được bởi vì tâm trí cứ tạo ra dối trá. Có tính
thiền có nghĩa là nhận biết về sự kiện rằng tâm trí đang che giấu cái gì đó với
bạn, bạn đang nhắm mắt lại với những sự kiện nào đó đang gây phiền nhiễu. Chẳng
chóng thì chầy, những phiền nhiễu đấy sẽ bùng ra, nó sẽ áp đảo bạn, và bạn sẽ
chuyển sang phía đối lập. Và phía đối lập ấy thì không có đó ở một nơi xa xôi
nào, ở ngôi sao nào đó; cái đối lập đang bị che giấu ngay đằng sau bạn, ở trong
bạn, trong tâm trí bạn, trong chính vận hành của tâm trí. Nếu bạn có thể hiểu
được điều này, bạn sẽ dừng lại được ở chính giữa.
Nếu
bạn có thể thấy mình yêu và mình ghét, đột nhiên cả hai sẽ biến mất, bởi vì cả
hai không thể tồn tại cùng nhau trong tâm thức được. Bạn phải tạo ra rào chắn:
một cái phải tồn tại trong vô thức, và một cái thì trong ý thức. Cả hai không
thể tồn tại trong ý thức được, chúng sẽ phủ định lẫn nhau. Yêu sẽ phá huỷ ghét,
ghét sẽ phá huỷ yêu; chúng sẽ cân bằng lẫn nhau và chúng đơn giản sẽ biến mất.
Cùng một khối lượng ghét và cùng một khối lượng yêu sẽ phủ định lẫn nhau. Bỗng
nhiên chúng sẽ bay hơi mất - bạn sẽ có đó, nhưng không yêu và cũng không ghét.
Thế thì bạn được cân bằng.
Khi
bạn cân bằng, tâm trí không có đó - thế thì bạn là cái toàn thể. Khi bạn là cái
toàn thể, bạn là linh thiêng, nhưng tâm trí không có đó. Cho nên thiền là trạng
thái của vô trí. Qua tâm trí thì điều đó không thể nào đạt được. Qua tâm trí,
dù bạn có làm gì đi nữa, bạn cũng chẳng bao giờ đạt được thiền. Thế thì bạn làm
gì khi bạn thiền?
Bởi
vì bạn đã tạo ra biết bao căng thẳng trong cuộc sống, cho nên bây giờ bạn
thiền. Nhưng đây là cái đối lập của căng thẳng, không phải là thiền thực đâu.
Bạn đang căng thẳng đến mức thiền đã trở thành hấp dẫn. Đó là lí do tại sao ở
phương Tây thiền lại hấp dẫn hơn ở phương Đông, bởi vì có nhiều căng thẳng hơn
ở phương Đông. Phương Đông vẫn còn thảnh thơi, mọi người không căng thẳng mấy,
họ không phát điên một cách đễ dàng đến thế, họ không tự tử một cách đễ dàng
đến thế. Họ không bạo hành đến thế, không hùng hổ đến thế, không sợ hãi đến
thế, không khiếp đảm đến thế - không, họ không căng thẳng đến thế. Họ không
sống theo một tốc độ điên khùng đến thế, khi chẳng có gì ngoài căng thẳng
được tích luỹ.
Cho
nên nếu Mahesh Yogi tới Ấn Độ, chẳng ai nghe hết cả. Nhưng ở Mĩ, mọi người đều
phát điên vì ông ấy. Khi có nhiều căng thẳng, thiền sẽ hấp dẫn. Nhưng cái hấp
dẫn này lại rơi vào cùng một bẫy. Đây không phải là thiền thực, đây lần nữa lại
là thủ đoạn. Bạn thiền được vài ngày, bạn trở nên thảnh thơi; khi bạn trở nên
thảnh thơi, lần nữa nhu cầu hoạt động lại nảy sinh, và tâm trí bắt đầu nghĩ đến
việc làm cái gì đó, hay di chuyển. Bạn phát chán với thiền.
Người
ta tới tôi là nói, “Chúng tôi đã thiền vài năm nay, thế rồi việc thiền trở
thành chán, thế rồi chẳng còn có cái gì là vui vẻ nữa.”
Mới
hôm nọ thôi, một cô gái đến tôi và nói, “Bây giờ thiền chẳng còn gì vui nữa,
tôi phải làm gì bây giờ?”
Bây
giờ tâm trí đang tìm kiếm cái gì đó khác, bây giờ nó đã có đủ thiền rồi. Bởi vì
cô ấy bây giờ thấy thoải mái, cho nên tâm trí đang yêu cầu được căng thẳng hơn
- cái gì đó cần phải được khuấy động lên. Khi cô ấy nói rằng bây giờ thiền
không còn vui vẻ gì nữa, cô ấy ngụ ý rằng bây giờ căng thẳng không có đó, cho
nên làm sao thiền có thể vui được? Cô ấy sẽ phải chuyển vào trong căng thẳng
lần nữa, thế thì thiền lần nữa mới trở thành cái gì đó đáng giá.
Nhìn
vào cái ngớ ngẩn này của tâm trí: bạn phải đi xa để về gần, bạn phải trở nên
căng thẳng để thiền. Nhưng thế thì điều này không phải là thiền, thế thì
lần nữa đây lại là trò mẹo của cùng cái tâm trí đấy thôi; trên một mức độ mới,
cùng trò chơi lại tiếp diễn.
Khi
tôi nói thiền, tôi nói tới vượt ra ngoài trò chơi này của các phía đối lập;
loại bỏ đi toàn bộ trò chơi này, nhìn vào cái ngớ ngẩn của nó và siêu việt lên
trên nó. Chính hiểu biết trở thành siêu việt.
Tâm
trí sẽ buộc bạn phải chuyển sang phía đối lập - nhưng bạn đừng chuyển sang phía
đối lập. Dừng lại ở chính giữa và thấy rằng điều này bao giờ cũng là trò mẹo
của tâm trí. Đây chính là cách thức tâm trí đã chi phối bạn - thông qua phía
đối lập. Bạn có cảm thấy điều đó không?
Sau
khi làm tình với người đàn bà, bạn đột nhiên bắt đầu nghĩ về vô dục
brahmacharya, và brahmacharya có hấp dẫn đến thế vào lúc bạn cảm thấy rằng
dường như chẳng có cái gì khác cần đạt đến nữa. Bạn cảm thấy thất vọng, bị lừa
dối, bạn cảm thấy rằng chẳng có gì trong dục cả, chỉ có brahmacharya mới có
phúc lạc. Nhưng sau hai mươi tư giờ, dục lại trở thành quan trọng, có ý nghĩa,
và lần nữa bạn lại phải chuyển vào trong đó.
Tâm
trí đang làm điều gì vậy? Sau hành động dục nó bắt đầu nghĩ về cái đối lập,
cái lần nữa lại tạo ra hương vị cho dục.
Người
bạo hành bắt đầu nghĩ về không bạo hành, thế rồi người đó lại dễ dàng trở thành
bạo hành lần nữa. Người cứ giận dữ đi giận dữ lại bao giờ cũng nghĩ đến
việc không giận dữ, bao giờ cũng quyết định là không giận dữ nữa. Quyết định
này giúp người đó trở nên giận dữ lần nữa.
Nếu
bạn thật sự muốn không giận dữ nữa, đừng quyết định chống lại giận dữ. Chỉ nhìn
vào trong giận dữ này và chỉ nhìn vào trong cái bóng của giận dữ mà bạn nghĩ
rằng là không giận dữ. Nhìn vào dục đi, và nhìn vào cái bóng của dục, cái bạn
nghĩ rằng đó là brahmacharya, vô dục. Đấy chỉ là phủ định, sự vắng mặt. Nhìn
vào việc ăn quá nhiều và cái bóng của nó - nhịn ăn. Nhịn ăn bao giờ cũng theo
sau ăn quá nhiều, quá mê đắm bao giờ cũng theo sau lời nguyền về vô dục; căng
thẳng bao giờ cũng theo sau một số kĩ thuật thiền. Nhìn vào chúng cùng nhau đi,
cảm thấy cách chúng có quan hệ với nhau; chúng là bộ phận của cùng một quá
trình.
Nếu
bạn có thể hiểu điều này, thiền sẽ xảy ra cho bạn. Thực sự, nó không phải là
cái gì đó cần làm, đó là vấn đề về hiểu biết. Nó không phải là nỗ lực, nó không
phải là cái cần thành đạt. Nó là cái gì đó cần phải được hiểu một cách sâu sắc.
Hiểu
biết đem lại tự do. Tri thức về toàn bộ cơ chế của tâm trí là việc biến đổi.
Thế thì bỗng nhiên chiếc đồng hồ dừng lại, thời gian biến mất: và với việc dừng
lại của chiếc đồng hồ, cũng không còn tâm trí nữa. Với việc dừng lại của thời
gian, bạn ở đâu? Con thuyền là rỗng không.
Bây
giờ chúng ta đi vào lời kinh này của Trang Tử:
Con
người của Đạo hành động không cản trở
Không
làm hại người khác bằng hành động của mình
vậy
người đó không biết mình là tốt bụng và tử tế
Con
người của đạo hành động không cản trở gì… Bạn bao giờ cũng hành động với sự cản
trở, cái đối lập bao giờ cũng có đó để tạo ra cái cản trở; bạn không phải là
một luồng.
Nếu
bạn yêu, ghét bao giờ cũng có đó như một cản trở. Nếu bạn di chuyển, cái gì đó
đang giữ bạn lại; bạn chẳng bao giờ di chuyển một cách toàn bộ. Cái gì đó bao
giờ cũng còn lại, di chuyển là không toàn bộ. Bạn đi bằng một chân nhưng chân
kia lại không chuyển. Làm sao bạn có thể đi được? Cái cản trở đang có đó.
Và
cái cản trở này, việc liên tục di chuyển của nửa này và không di chuyển của nửa
kia, chính là đau đớn của bạn, lo âu của bạn. Tại sao bạn ở trong biết bao
nhiêu đau khổ như vậy? Cái gì tạo ra biết bao nhiêu lo âu trong bạn như vậy?
Bất kì cái gì bạn làm, tại sao phúc lạc không xảy ra qua nó? Phúc lại chỉ có
thể xảy ra cho cái toàn thể, không bao giờ xảy ra cho bộ phận.
Khi
cái toàn thể di chuyển, không có bất kì cản trở nào, chính việc di chuyển đó là
phúc lạc. Phúc lạc không phải là cái gì đó đến từ bên ngoài - nó là cảm giác
đến khi toàn bộ con người của bạn di chuyển, chính chuyển động của cái toàn thể
là phúc lạc. Nó không phải là cái gì đó xảy ra cho bạn, nó nảy sinh ra từ bạn,
nó là sự hài hoà trong con người bạn.
Nếu
bạn bị phân chia - và bạn bao giờ cũng bị phân chia: nửa đi, nửa dừng, nửa nói
có, nửa nói không, nửa yêu, nửa ghét, bạn đang trong vương quốc bị phân chia
đấy - thường xuyên có xung đột trong bạn. Bạn nói điều gì đó nhưng chẳng bao
giờ bạn ngụ ý nó, bởi vì cái đối lập có đó, đang cản trở, tạo ra chướng ngại.
Các
đệ tử của Baal Shem quen ghi ra bất kì cái gì ông ấy nói, và Baal Shem lại hay
nói: Ta biết rằng bất kì cái gì các anh viết ra cũng không phải là điều ta nói.
Các anh nghe một điều, ta nói một điều khác, và các anh viết ra cái gì đó khác
nữa. Và nếu các anh nhìn vào ý nghĩa, ý nghĩa lại là cái gì đó khác nữa. Các
anh sẽ chẳng bao giờ làm điều các anh đã viết ra, các anh sẽ làm cái gì
đó khác - những phân mảnh, không phải là điều được tích hợp lại.
Tại
sao có những phân mảnh này?
Bạn
đã bao giờ nghe câu chuyện về con rết chưa? Con rết đang bước đi với một trăm
chân - đó là lí do tại sao trong tiếng Anh người ta gọi nó là centipede,
một trăm chân. Bước đi bằng một trăm chân quả là điều kì diệu, bởi vì thậm chí
quản lí hai chân thôi cũng đã thấy khó thế rồi! Quản lí đến một trăm chân thì
thực sự gần như là không thể được. Nhưng rết vẫn cứ quản lí việc đi như thế
đấy!
Một
con cáo trở nên tò mò - và cáo thì bao giờ cũng tò mò. Cáo là biểu tượng trong
văn học dân gian về tâm trí, về trí tuệ, về logic. Cáo là những nhà logic vĩ
đại. Cáo nhìn, nó quan sát, nó phân tích, nó không thể tin được điều đó. Nó
nói, “Hượm đã anh bạn! Tôi có câu hỏi đây này. Làm sao anh quản lí được,
làm sao anh lại biết được chân nào phải theo chân nào? Những một trăm chân cơ!
Anh bước nhịp nhàng làm sao. Làm sao hài hoà này lại xảy ra được?”
Rết
nói, “Tôi đã bước cả đời chưa bao giờ tôi nghĩ về điều đó. Đợi tôi một
chút.”
Thế
rồi nó nhắm mắt lại và lần đầu tiên nó trở nên bị phân chia: tâm trí như là
người quan sát, và bản thân nó như là vật được quan sát. Lần đầu tiên con rết
trở thành hai. Nó bao giờ cũng sống và bước đi, và toàn bộ cuộc đời nó là một
toàn thể; không có người quan sát đứng nhìn vào bản thân nó, nó chưa bao giờ bị
phân chia cả, nó đã là một sinh linh nhất thể. Bây giờ, lần đầu tiên, phân chia
nảy sinh. Nó nhìn vào chính bản thân mình, suy nghĩ. Nó trở thành chủ thể và
khách thể, nó đã trở thành hai, và thế rồi nó bắt đầu bước. Nhưng khó
quá, gần như là không thể được. Nó ngã nhào - bởi vì làm sao bạn có thể quản lí
được đến một trăm chân?
Cáo
cười phá lên và nói, “Tôi biết mà, phải là khó lắm, tôi biết trước điều này
rồi.”
Rết
bắt đầu kêu khóc. Nước mắt tràn trề, nó nói, “Tôi chưa bao giờ khó khăn như thế
này trước đây cả, nhưng anh đã tạo ra vấn đề rồi. Bây giờ tôi chẳng bao
giờ có thể bước được nữa.”
Tâm
trí đã đi vào hiện hữu; nó đi vào hiện hữu khi bạn bị phân chia. Tâm trí nuôi
dưỡng phân chia. Đó là lí do tại sao Krishnamurti thường xuyên nói rằng khi
người quan sát đã trở thành cái được quan sát, bạn ở trong thiền.
Cái
đối lập đã xảy ra với con rết. Cái toàn thể đã mất đi, nó đã trở thành hai:
người quan sát và vật được quan sát, bị phân chia; chủ thể và khách thể, người
suy nghĩ và ý nghĩ. Thế thì mọi thứ trở thành rối loạn, thế thì phúc lạc đã mất
và luồng chảy bị dừng lại. Thế thì nó bị đông cứng.
Bất
kì khi nào tâm trí đi vào là nó tới như một lực điều khiển, người quản lí. Nó
không phải là người chủ, nó là người quản lí. Và bạn không thể nào trở thành
người chủ chừng nào người quản lí này còn chưa bị đẩy sang một bên. Người
quản lí sẽ không cho phép bạn đạt tới người chủ, người quản lí bao giờ cũng sẽ
đứng ở cửa ra vào để quản lí. Và tất cả những người quản lí đều chỉ quản lí sai
- tâm trí đã làm công việc rất lớn về việc quản lí sai.
Con
rết tội nghiệp. Nó bao giờ cũng hạnh phúc. Nó chẳng bao giờ có vấn đề gì cả. Nó
đã sống, đã di chuyển, đã yêu, mọi thứ, không có vấn đề gì, bởi vì không có tâm
trí. Tâm trí đến với vấn đề, với câu hỏi, với việc truy tìm. Và có biết bao
nhiêu cáo ở quanh bạn. Nhận biết về chúng đi - các triết gia, các nhà thượng đế
học, các nhà logic, các giáo sư, tất cả bao quanh bạn - đều là cáo cả đấy. Họ
hỏi bạn những câu hỏi, rồi họ tạo ra rối loạn.
Thầy
của Trang Tử, Lão Tử đã nói: Khi không còn triết gia, mọi thứ đều được giải
quyết, không có vấn đề gì, và tất cả các câu trả lời đều có đấy. Khi triết gia
phát sinh, câu hỏi tới và câu trả lời biến mất. Bất kì khi nào có câu hỏi, câu
trả lời ở rất xa. Bất kì khi nào bạn hỏi, bạn sẽ không bao giờ nhận được câu
trả lời, nhưng khi bạn dừng hỏi, bạn sẽ thấy rằng câu trả lời bao giờ cũng có
đó rồi.
Tôi
không biết điều gì đã xảy ra cho con rết này. Nếu nó cũng đần độn như con
người, nó sẽ ở đâu đó trong bệnh viện, què quặt, tê liệt mãi mãi. Nhưng tôi
không nghĩ rằng con rết ấy lại đần độn thế. Nó phải đã vứt câu hỏi đó đi ngay.
Nó phải đã bảo với cáo thế này, “Thôi, anh cứ giữ câu hỏi của anh lại, và để
cho tôi bước đi.” Nó phải đi đến nhận biết rằng phân chia sẽ không cho phép nó
sống, bởi vì phân chia tạo ra cái chết. Không bị phân chia, bạn là sống, bị
phân chia bạn trở thành chết - càng phân chia nhiều, càng chết nhiều.
Phúc
lạc là gì? Phúc lạc là cảm giác đến với bạn khi người quan sát trở thành
cái được quan sát. Phúc lạc là cảm giác đến với bạn khi bạn đang trong hài hoà,
không phân mảnh; là cái một, không bị phân tách ra, không bị phân chia. Cảm
giác không phải là cái gì đó xảy ra từ bên ngoài. Nó là giai điệu phát sinh từ
hài hoà bên trong của bạn.
Trang
Tử nói:
Con
người của Đạo hành động không cản trở…
Người
đó không bị phân chia cho nên ai có đó để cản trở? Cái gì có đó để
vận hành như vật cản trở? Người đó đơn độc, người đó di chuyển với tính toàn
thể của mình. Chuyển động này trong cái toàn thể là cái đẹp vĩ đại nhất có thể
xảy ra, đó là điều có thể. Đôi khi bạn cũng có những thoáng nhìn về nó. Thỉnh
thoảng khi bạn bỗng nhiên là cái toàn thể, khi tâm trí không vận hành, nó xảy
ra.
Mặt
trời đang lên… đột nhiên bạn nhìn, và người quan sát không có đó. Mặt trời
không có đó và bạn cũng không có đó, không có người quan sát và cũng không có
vật được quan sát. Đơn giản mặt trời lên và tâm trí bạn không có đó để quản lí.
Bạn không thấy nó và nói, “Mặt trời đẹp quá.” Khoảnh khắc bạn nói điều ấy thì
phúc lạc bị mất rồi. Thế thì không có phúc lạc nữa, nó đã trở thành quá khứ, nó
đã trôi qua.
Đột
nhiên bạn thấy mặt trời lên và người thấy không có đó; người thấy còn chưa đi
vào hiện hữu, nó chưa trở thành ý nghĩ. Bạn chưa nhìn, bạn chưa phân tích, bạn
chưa quan sát. Mặt trời đang lên, và không có ai cả, con thuyền là rỗng; có
phúc lạc, một thoáng nhìn. Nhưng tâm trí lập tức đi vào, và nói, “Mặt trời đẹp
quá, cảnh mặt trời lên này đẹp thế.” So sánh đã đi vào và cái đẹp bị mất đi.
Những
người chứng ngộ nói rằng bất kì khi nào bạn nói “Anh yêu em” hoặc “Em yêu anh”
với người kia, tình yêu đã mất rồi. Tình yêu đã trôi qua bởi vì người yêu đã đi
vào. Làm sao tình yêu có thể tồn tại khi phân chia, người quản lí, đã đi vào?
Chính tâm trí nói ra “Anh yêu em” hay “Em yêu anh”, bởi vì, thực sự trong tình
yêu không có anh và không có em. Trong tình yêu không có các cá nhân. Tình yêu
là tan chảy, hội nhập, họ không phải là hai.
Tình
yêu tồn tại, không phải là người yêu. Trong tình yêu, tình yêu tồn tại chứ
không phải là người yêu, nhưng tâm trí đi vào và nói, “Anh đang trong tình yêu,
anh yêu em.” Khi cái ‘tôi’ tới, hoài nghi đi vào; phân chia đi vào và tình yêu
thì không còn nữa.
Bạn
sẽ còn đi tới thoáng nhìn như thế nhiều lần trong việc thiền của mình. Nhớ lấy,
bất kì khi nào bạn cảm thấy một thoáng nhìn như vậy, chớ có nói “Đẹp quá!” chớ
có nói “Yêu thế!” bởi vì đấy chính là cách bạn sẽ làm mất nó. Bất kì khi nào
cái thoáng nhìn này tới, để cho thoáng nhìn này ở đó. Đừng có làm cái
điều con rết đã làm - đừng có đưa ra bất kì câu hỏi nào, đừng có làm bất
kì sự quan sát nào, đừng có phân tích, đừng cho phép tâm trí đi vào. Hãy bước
đi với một trăm chân, nhưng đừng có suy nghĩ về cách bạn bước.
Khi
trong thiền bạn có một thoáng nhìn về một niềm cực lạc nào đó, hãy để nó xảy
ra, hãy để nó đi sâu. Đừng tự phân chia mình. Đừng nêu ra bất kì phát biểu nào,
nếu không thì sự tiếp xúc này sẽ bị mất.
Đôi
khi bạn có những thoáng nhìn, nhưng bạn đã trở thành hiệu quả trong việc đánh
mất sự tiếp xúc của mình với những thoáng nhìn đó, đến mức bạn không thể nào
hiểu nổi cách chúng tới và cách bạn lại làm mất chúng một lần nữa. Chúng tới
khi bạn không có đó, bạn mất chúng khi bạn tới lại. Khi bạn có thì chúng không
có. Khi con thuyền trống rỗng, phúc lạc bao giờ cũng xảy ra. Đấy không phải là
một điều ngẫu nhiên, đấy chính là bản chất của sự tồn tại. Nó không phụ thuộc
vào bất kì cái gì - nó là việc mưa rào, nó chính là hơi thở của cuộc sống.
Điều
thực sự kì lạ là ở cách thức bạn đã xoay sở để bị khổ thế, để khát bỏng thế,
trong khi trời lại mưa khắp mọi nơi. Bạn đã thực sự làm được điều không thể làm
được! ánh sáng có khắp mọi nơi còn bạn lại vẫn sống trong bóng tối; cái chết
chẳng ở đâu cả còn bạn cứ thường xuyên chết đi; cuộc sống là một phúc lành còn
bạn thì trong địa ngục.
Bạn
đã xoay xở nó theo cách nào vậy? Thông qua phân chia, thông qua suy nghĩ… Suy
nghĩ phụ thuộc vào phân chia, phân tích; thiền là khi không có phân tích, không
có phân chia, khi mọi thứ đã trở thành được tổng hợp lại, khi mọi thứ đã trở
thành một.
Trang
Tử nói:
Con
người của Đạo hành động không cản trở
Không
làm hại người khác bằng hành động của mình
Làm
sao người đó có thể làm hại được? Bạn có thể làm hại người khác chỉ khi
bạn đã làm hại chính mình. nhớ điều này; đây là điều bí mật. Nếu bạn làm
hại chính bản thân mình, bạn sẽ làm hại người khác. Và bạn sẽ làm hại ngay cả
khi bạn nghĩ bạn đang làm điều tốt cho người khác. Chẳng cái gì có thể xảy ra
qua bạn ngoài cái hại, bởi vì một người sống với những vết thương, người sống
trong đau khổ và khổ, bất kì cái gì người đó làm, người đó cũng sẽ tạo ra nhiều
đau khổ và khổ cho người khác. Bạn chỉ có thể cho cái bạn đã có.
Tôi
đã từng nghe rằng ngày xưa có một người ăn xin đến một giáo đường Do Thái và
người đó nói với người phụ trách giáo đường, “Tôi là một nhạc sĩ vĩ đại, và tôi
nghe nói rằng nhạc sĩ thuộc về giáo đường này đã chết và hiện nay ông đang kiếm
một nhạc sĩ khác. Cho nên tôi đến đây để hiến dâng bản thân mình.”
Người
phụ trách giáo đường và giáo đoàn rất là sung sướng, bởi vì họ thực sự đang
thiếu nhạc sĩ. Thế rồi người này bắt đầu chơi đàn - khủng khiếp làm sao! Không
có âm nhạc của ông ấy thì đã có quá nhiều âm nhạc rồi. Ông ấy đã tạo ra địa
ngục. Không thể nào cảm thấy bất kì cái im lặng nào trong giáo đường đó vào
buổi sáng hôm đó. Người ta phải bảo ông ấy thôi, bởi vì phần lớn giáo đoàn bắt
đầu bỏ đi. Mọi người trốn thật nhanh bởi vì âm nhạc của ông ấy thật là hỗn
loạn, giống như là cơn điên và nó bắt đầu ảnh hưởng tới mọi người.
Khi
người phụ trách giáo đường nghe thấy nói rằng mọi người đã bỏ đi, ông ta đi tới
người này và bảo người này thôi. Người này nói, “Nếu ông không cần tôi thì ông
có thể trả tiền cho tôi buổi sáng nay rồi tôi sẽ ra đi.”
Viên
phụ trách giáo đường nói, “Không thể nào trả tiền cho ông được. Chúng tôi chưa
bao giờ trải qua một điều khủng khiếp như thế.”
Thế
là người nhạc sĩ này nói, “Thôi được, thế thì hãy giữ nó như phần đóng góp của
tôi vậy.”
Ông
phụ trách giáo đường nói, “Nhưng làm sao ông lại có thể đóng góp cái ông
không có? Ông chẳng có một tí âm nhạc nào hết cả - làm sao ông có thể đóng góp
được? Ông có thể đóng góp cái gì đó chỉ khi ông đã có được nó. Đây không phải
là âm nhạc đúng hơn, ngược lại, nó là một cái gì giống như là phản âm
nhạc. Cho nên xin ông đem cái đấy theo ông đi, đừng có đóng góp cái đấy cho
chúng tôi chứ không thì nó sẽ ám ảnh chúng tôi mất.”
Bạn
chỉ cho những cái bạn đã có. Bạn bao giờ cũng cho bản thể của mình. Nếu
bạn chết bên trong, bạn không thể giúp ích gì cho cuộc sống; dù bạn có đi đến
đâu chăng nữa thì bạn cũng sẽ giết chết. Dù có hiểu biết hay không hiểu biết,
đấy không phải là vấn đề - bạn có thể nghĩ rằng bạn đang giúp các người khác
sống, nhưng bạn vẫn đang giết họ đấy.
Một
nhà phân tâm lớn, Wilhelm Reich, người đã nghiên cứu về trẻ con và vấn đề của
chúng, có lần đã được hỏi, “Vấn đề cơ bản nhất đối với trẻ con là gì? Ông thấy
gì tại gốc rễ của tất cả những khổ, vấn đề, điều bất thường của chúng?”
Ông
ấy nói, “Người mẹ.”
Không
người mẹ nào có thể đồng ý được với điều này, bởi vì mọi người mẹ đều cảm thấy
rằng mình giúp đứa con của mình không có bất kì ích kỉ nào về phần mình.
Cô ấy sống và chết cho đứa trẻ. Còn các nhà phân tâm thì lại nói người mẹ mới
là vấn đề. Một cách không chủ ý họ đang giết chết, làm què quặt; một cách có
chủ ý họ nghĩ là họ đang yêu.
Nếu
bạn què quặt bên trong, bạn sẽ làm què quặt con bạn. Bạn không thể làm được bất
kì điều gì khác, bạn không thể đừng được điều đó, bởi vì bạn đem cho bản thể
mình - không có cách nào khác để cho cả.
Trang
Tử nói: Con người của Đạo… không làm hại người khác bằng hành động của
mình. Không phải là người đó trau dồi không bạo hành, không phải là
người đó trau dồi lòng từ bi, không phải là người đó sống cuộc sống tốt, không
phải là người đó hành xử theo cách thánh thiện - không. Người đó không thể làm
hại bởi vì người đó đã chấm dứt làm hại bản thân mình. Người đó không có vết
thương. Người đó phúc lạc đến mức từ hành động hay không hành động của mình,
chỉ có mỗi phúc lạc tuôn chảy. Cho dù đôi khi dường như là người đó làm điều gì
đó sai, người đó cũng không thể sai được.
Điều
ấy thì đối lập lại với bạn. Đôi khi dường như là bạn làm điều gì đó tốt. Bạn
không thể làm điều tốt được. Con người của Đạo không thể làm hại, điều đó là
không thể được. Không có cách nào để làm điều đó, điều đó không thể quan niệm
nổi - bởi vì người đó không phân chia, phân mảnh. Người đó không phải là đám
đông, người đó không phải đa tâm lí. Người đó là vũ trụ bây giờ và không là gì
khác hơn một giai điệu đang xảy ra bên trong. Chỉ âm nhạc này lan toả.
Con
người của Đạo không phải là người của hành động - người đó không phải là con
người của hành động, hành động xảy ra qua người đó là ít nhất. Người đó thực sự
là con người của bất hoạt, người đó không bận tâm tới hoạt động.
Nhưng
bạn lại bận tâm với hoạt động chỉ để trốn thoát khỏi bản thân mình. Bạn không
thể tha thứ cho mình, bạn không thể tha thứ cho người đồng hành của mình. Bạn
cứ tìm ai đó như một kẻ đào thoát, một bận tâm nào đó, trong đó bạn có thể quên
lãng bản thân mình, trong đó bạn dính líu vào. Bạn chán bản thân mình đến thế.
Con
người của Đạo, con người đã đạt tới bản tính bên trong, con người thực sự tôn
giáo, không phải là con người của nhiều hoạt động. Chỉ cái cần thiết mới xảy
ra. Cái không cần thiết bị cắt bỏ hoàn toàn, bởi vì người đó có thể thoải
mái không hoạt động, người đó có thể ở nhà không làm gì cả, người
đó có thể thảnh thơi, người đó có thể đi cùng với bản thân mình, người đó có
thể sống cùng với cái ta của mình.
Bạn
không thể sống cùng với bản thân mình được, do đó mới thường xuyên có thôi thúc
đi tìm bầu bạn, tới câu lạc bộ, tới hội họp, tới đám tiệc, đi vào trong đám
đông, nơi bạn không một mình. Bạn sợ bản thân mình đến mức nếu bạn bị bỏ lại
hoàn toàn đơn độc không hoạt động gì thì bạn sẽ phát điên. Và đây không phải là
điều gì đó do người tôn giáo nói, bây giờ các nhà tâm lí cũng đồng ý với điều
đó. Chỉ trong ba tuần, nếu mọi hoạt động, nếu mọi bầu bạn, bị lấy đi khỏi bạn,
nếu bạn bị bỏ lại một mình trong buồng, trong vòng ba tuần lễ bạn sẽ phát điên
- bởi vì tất cả các hoạt động của bạn chỉ là để tống ra cái điên khùng của bạn,
nó là việc thanh tâm.
Bạn
làm gì khi bạn có một mình? Trong ba hay bốn ngày bạn sẽ mơ mộng và nói bên
trong, huyên thuyên bên trong. Thế rồi điều này sẽ trở thành nhàm chán. Sau
tuần đầu bạn sẽ bắt đầu nói to bởi vì ít nhất thì bạn sẽ nghe thấy âm thanh của
tiếng nói của mình. Khi bạn bước đi trong phố tối ban đêm bạn bắt đầu huýt sáo.
Tại sao? Tại sao việc huýt sáo này lại cho bạn sự can đảm? Tại sao việc huýt
sáo này lại có ích cho bạn? Chỉ nghe thấy nó là bạn cảm thấy rằng bạn không đơn
độc, ai đó đang huýt sáo. Cái ảo tưởng về hai người được tạo ra!
Sau
tuần đầu bạn sẽ bắt đầu nói to bởi vì thế thì bạn cũng có thể lắng nghe. Bạn
không một mình, bạn đang nói và bạn đang nghe dường như ai đó khác đang nói với
bạn. Sau hai tuần bạn sẽ bắt đầu trả lời cho chính mình. Bạn sẽ không chỉ nói,
bạn sẽ trả lời - bạn bị phân chia. Bây giờ bạn là hai; một người hỏi, một người
trả lời. Bây giờ có đối thoại - bạn đã hoàn toàn phát rồ.
Một
người đã hỏi bác sĩ tâm thần của mình, “Tôi rất lo nghĩ, tôi tự nói với chính
mình. Tôi phải làm gì? Ông có thể giúp tôi được không?”
Bác
sĩ tâm thần nói, “Điều này chẳng có gì phải lo nghĩ cả. Mọi người đều tự nói
với chính mình, đây không phải là vấn đề lớn. Chỉ khi ông bắt đầu trả lời, hãy
lại tôi, thế thì tôi có thể giúp được.”
Nhưng
khác biệt chỉ là ở mức độ; nó không khác về kiểu, nó chỉ khác về định lượng.
Nếu bạn bắt đầu nói với chính mình, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ bắt đầu trả lời
nữa, bởi vì làm sao người ta có thể cứ đơn giản nói mãi được? Việc trả lời là
cần thiết, nếu không thì bạn sẽ cảm thấy ngu xuẩn. Đến tuần thứ ba thì bạn bắt
đầu trả lời - bạn đã phát rồ.
Thế
giới này, thế giới hoạt động này, kinh doanh và bận tâm, cứu bạn khỏi nhà thương
điên. Nếu bạn bận bịu, năng lượng đi ra; thế thì bạn không cần để ý tới bên
trong, thế giới bên trong, bạn có thể quên nó đi.
Con
người của Đạo không phải là người của nhiều hoạt động - chỉ hoạt động thực chất
nhất. Tương truyền rằng nếu Trang Tử có thể đứng, ông ấy sẽ không bước đi, nếu
ông ấy có thể ngồi, ông ấy sẽ không đứng, nếu ông ấy có thể ngủ, ông ấy sẽ
không ngồi. Điều thực chất, điều thực chất nhất, chỉ cái cần thiết thì ông ấy
mới làm, bởi vì không có cái điên khùng trong nó.
Bạn
làm toàn những điều không thực chất, bạn cứ làm những điều không thực
chất. nhìn vào hoạt động của mình xem: chín mươi chín phần trăm là
điều không thực chất. Bạn có thể loại bỏ chúng, bạn có thể tiết kiệm nhiều năng
lượng, bạn có thể tiết kiệm nhiều thời gian. Nhưng bạn không thể loại bỏ chúng
bởi vì bạn sợ, bạn hoảng sợ bản thân mình. Nếu không có radio, không có ti vi,
không báo chí, không ai nói chuyện với, bạn sẽ làm gì?
Tôi
đã nghe nói về một linh mục vừa chết. Tất nhiên, ông ấy mong đợi lên thiên
đường, lên trời. Ông ấy tới đó và mọi sự đều đẹp đẽ. Ngôi nhà ông ấy vào là một
trong những điều kì diệu nhất người ta mơ tới, thật nguy nga. Và khoảnh
khắc ham muốn tới, ngay lập tức một người hầu xuất hiện. Nếu ông ấy đói, người
hầu có đó với thức ăn, ngon nhất ông ấy đã từng nếm. Nếu ông ấy khát,
thậm chí trước khi ham muốn trở thành ý nghĩ, trong khi nó mới chỉ là một cảm
giác, một người sẽ xuất hiện với đồ uống.
Cho
nên điều đó cứ liên tục diễn ra và ông ấy rất hạnh phúc trong hai hay ba ngày,
và thế rồi ông ấy bắt đầu cảm thấy bứt rứt bởi vì người ta phải làm gì đó, bạn
không thể chỉ ngồi trong ghế. Chỉ con người của Đạo mói có thể chỉ ngồi trong
ghế và cứ ngồi, ngồi mãi. Bạn không thể thế được.
Linh
mục trở nên bứt rứt. Trong hai hay ba ngày thì thế là được, như kì nghỉ, như
việc nghỉ ngơi. Ông ấy đã hoạt động thế - nhiều dịch vụ công cộng thế, truyền
giáo, nhà thờ, hành lễ; ông ấy đã dính líu với xã hội và cộng đồng nhiều đến
thế, cho nên ông ấy nghỉ ngơi. Nhưng làm sao bạn có thể nghỉ được? Trừ phi bản
thể bạn nghỉ, còn không chẳng chóng thì chầy ngày nghỉ sẽ kết thúc, và bạn phải
quay lại với thế giới. Bứt rứt nảy sinh; ông ấy bắt đầu cảm thấy không thoải
mái.
Bỗng
nhiên người phục vụ xuất hiện và hỏi, “Ông cần gì? Cái cảm giác này của ông
không phải là một ý muốn, ông không khát cũng chẳng đói, chỉ bứt rứt. Vậy tôi
phải làm gì?”
Linh
mục nói, “Ta không thể ngồi ở đây mãi mãi, vĩnh viễn được, ta cần hoạt động nào
đó.”
Người
hầu nói, “Điều đó là không thể được. Tất các ham muốn của ông sẽ được chúng tôi
thoả mãn ở đây, cho nên cần gì phải có hoạt động? Không cần, đó là lí do tại
sao nó không được cung cấp ở đây.”
Linh
mục trở nên rất bứt rứt và ông ta nói, “Cái kiểu thiên đường quái quỉ gì thế
này?”
Người
hầu đáp, “Ai nói đây là thiên đường? Đây là địa ngục chứ. Ai bảo ông là thiên
đường?”
Và
đây thực sự là địa ngục. Bây giờ thì ông ấy hiểu: không có hoạt động, đây là
địa ngục. Chẳng chóng thì chầy ông ấy sẽ phát điên. Không trao đổi hay nói
chuyện, không dịch vụ xã hội nào được thực hiện, không kẻ ngoại giáo nào được
cải đạo thành Ki tô giáo, không người ngu nào được làm thành trí huệ - vậy thì
ông ấy có thể làm được gì?
Chỉ
con người của Đạo mới có thể thay đổi địa ngục đó thành thiên đường. Con người
của Đạo, dù người đó ở đâu, cũng đều an bình, thoải mái. Chỉ điều thực chất mới
được làm, và nếu bạn có thể làm điều thực chất cho người đó, người đó hạnh
phúc. Cái không thực chất bị loại bỏ.
Bạn
không thể loại bỏ cái không thực chất. Thực sự, chín mươi chín phần trăm năng lượng
của bạn bị phí hoài cho cái không thực chất. Cái thực chất là không đủ, và tâm
trí bao giờ cũng khát khao những cái không thực chất, bởi vì cái thực chất ít
thế, nhỏ thế, nó có thể được hoàn thành dễ dàng. Thế thì bạn sẽ làm gì?
Mọi
người không quan tâm mấy tới việc có thức ăn ngon. Họ quan tâm nhiều hơn tới
việc có chiếc xe ô tô lớn bởi vì thức ăn ngon có thể có được rất dễ dàng. Thế
thì cái gì? Mọi người đều không quan tâm tới việc có thân thể khoẻ mạnh. Điều
đó có thể đạt tới được rất dễ dàng. Họ quan tâm tới cái gì đó không thể
đạt tới được một cách dễ dàng, cái gì đó không thể được, và cái không thực chất
thì bao giờ cũng không thể được. Bao giờ cũng có ngôi nhà lớn hơn, xe lớn hơn,
chúng cứ lớn mãi, lớn mãi và lớn mãi bạn thì chẳng bao giờ được phép
nghỉ.
Toàn
bộ thế giới này đang cố gắng để hoàn thành những cái không thực chất. Chín mươi
phần trăm ngành công nghiệp đều tham dự vào những cái không thực chất. Năm mươi
phần trăm lao động con người bị phí hoài vào những cái chẳng ích lợi gì theo
bất kì cách nào. Năm mươi phần trăm công nghiệp được dành cho tâm trí nữ tính,
hơn thế, thân thể phụ nữ: thiết kế trang phục mới cứ ba tháng một, thiết kế nhà
mới, quần áo, phấn sáp, xà phòng, kem; năm mươi phần trăm công nghiệp dành cho
những cái vô nghĩa thế. Và nhân loại thì đang chết đói, mọi người đang chết vì
thiếu thức ăn, và nửa nhân loại đang quan tâm tới những cái hoàn toàn không
thực chất.
Lên
mặt trăng là điều hoàn toàn không thực chất. Nếu như chúng ta trí huệ hơn một
chút thì chúng ta thậm chí không nghĩ về nó nữa. Điều hoàn toàn ngu xuẩn là đi
phí hoài tiền bạc có thể nuôi sống cả trái đất. Chiến tranh là điều không
thực chất, nhưng nhân loại lại điên, và nó cần chiến tranh hơn là lương thực.
Nó cần lên mặt trăng hơn là thức ăn, hơn quần áo, hơn cái thực chất, bởi vì cái
thực chất là không đủ.
Và
bây giờ khoa học đã tạo ra nỗi khiếp hãi lớn nhất, và nỗi khiếp hãi đó là ở chỗ
bây giờ điều thực chất có thể được đáp ứng rất dễ dàng. Trong mười năm, tất cả
nhu cầu của nhân loại có thể được đáp ứng, toàn bộ trái đất này có thể được
thoả mãn với những điều có liên quan tới nhu cầu thiết yếu nhất. Thế thì cái gì
nữa? Thế thì bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ cảm thấy ở vào cùng vị trí như linh mục kia.
Ông ấy nghĩ rằng ông ấy đang trong thiên đường, và thế rồi ông ấy thấy rằng đấy
là địa ngục. Trong mười năm toàn bộ trái đất có thể trở thành địa ngục.
Cái
không thực chất là cần để cho cái điên khùng của bạn vẫn còn dính líu vào. Cho
nên mặt trăng cũng không đủ, chúng ta sẽ phải đi xa hơn, chúng ta sẽ phải đi để
tạo ra cái vô dụng. Nó là cần thiết. Mọi người cần nó để bận tâm.
Con
người của Đạo không phải là con người của nhiều hoạt động. Hành động của người
đó là cái thực chất nhất - những cái không thể tránh được. Cái có thể
tránh được, người đó tránh. Người đó hạnh phúc với bản thân mình đến mức không
cần phải chuyển vào trong hành động. Hoạt động của người đó giống như bất hoạt;
người đó làm không có ai làm cả.
Người
đó là thuyền rỗng, di chuyển trên biển, không đi đâu cả.
Vậy
mà người đó không biết mình là tốt bụng và tử tế
Cho
phép điểm này thấm sâu vào trong tim bạn đi. Vậy mà người đó không biết mình
là tốt bụng và tử tế - bởi vì nếu bạn biết, bạn đã lỡ vấn đề;
nếu bạn biết rằng bạn là người đơn giản, bạn không đơn giản. Cái biết này làm
cho nó thành phức tạp. Nếu bạn biết rằng bạn là người tôn giáo, bạn không phải
là người tôn giáo, bởi vì cái tâm trí tinh ranh này, cái biết, vẫn còn đó.
Khi
bạn hiền lành, và bạn không biết, khi bạn đơn giản, và bạn không nhận biết về
nó, nó đã thành bản tính của bạn. Khi cái gì đó thực sự là tự nhiên thì bạn
không nhận biết về nó, nhưng khi cái gì đó bị áp đặt, bạn nhận biết về nó. Khi
ai đó trở nên giầu có, người giầu mới, người đó nhận biết về nhà mình, bể bơi
của mình, về cái giầu có của mình, và bạn có thể thấy rằng người đó không là
quí tộc, bởi vì người đó quá bận tâm tới việc khoe khoang.
Một
người mới giầu ra lệnh làm ba bể bơi trong vườn. Bể được làm và anh ta đem
chúng ra khoe với một người bạn. Người bạn có đôi chút phân vân. Anh ta nói,
“Những ba bể bơi sao? Để làm gì vậy? Một cái cũng đủ.”
Người
mới giầu nói, “Không, một cái sao được? Một cái cho tắm nước nóng, một cái cho
tắm nước lạnh.”
Anh
bạn hỏi, “Thế còn cái thứ ba?”
Anh
ta trả lời, “Dành cho những người không biết bơi. Cho nên bể bơi thứ ba dự định
để không có nước.”
Bạn
có thể thấy nếu một người mới có của cải mới - thì anh ta sẽ đem khoe nó. Một
người quí tộc thực sự là người đã quên mất rằng mình giầu. Con người của Đạo là
nhà quí tộc của thế giới bên trong.
Nếu
một người khoe khoang tôn giáo của mình thì anh ta vẫn còn chưa là tôn giáo
thực sự. Tôn giáo vẫn còn giống như chiếc gai, nó không tự nhiên, nó gây đau,
anh ta hăm hở khoe khoang nó. Nếu bạn muốn khoe cái giản dị của mình thì đấy là
kiểu giản dị gì vậy? Nếu bạn trưng bầy sự hiền lành của mình, thế thì điều đó
đơn giản là tinh ranh, chẳng có gì hiền lành tồn tại trong nó cả.
Con
người của Đạo là nhà quí tộc của thế giới bên trong. Người đó hoà hợp với nó
thế, không có sự trưng bầy - không chỉ với bạn, bản thân người đó cũng không
nhận biết về điều đó. Người đó không biết rằng mình là trí huệ, người đó không
biết rằng mình hồn nhiên - làm sao bạn có thể biết được bạn hồn nhiên hay
không? Tri thức của bạn sẽ quấy rối sự hồn nhiên.
Một
tín đồ của Hazarat Mohammed đi cùng ông ấy tới một đền thờ Mô ha mét giáo để
làm lễ cầu nguyện buổi sáng. Lúc đó là mùa hè, và trên đường quay về họ thấy
nhiều người vẫn còn ngủ trong nhà hay ngủ ngay ngoài phố. Lúc đó là sáng sớm,
sáng sớm mùa hè, và nhiều người vẫn còn ngủ. Người này nói một cách ngạo mạn
với Hazart Mohammed, “Điều gì sẽ xảy ra cho những kẻ tội lỗi này? Họ vẫn còn
chưa cầu nguyện buổi sáng.”
Hôm
nay là ngày đầu tiên bản thân anh ta đi cầu nguyện. Hôm qua anh ta vẫn
còn ngủ như những người này. Người mới giầu này muốn trưng bầy, khoe khoang cho
Mohammed: “Này Mohammed Hazrat, điều gì sẽ xảy ra cho những kẻ tội lỗi này? Họ
vẫn còn chưa cầu nguyện buổi sáng, họ vẫn còn lười nhác và ngủ.”
Mohammed
dừng lại và nói, “Anh về nhà đi, ta sẽ phải quay lại đền thờ lần nữa.”
Người
này nói, “Sao vậy?”
Ông
ta trả lời, “Lời cầu nguyện buổi sáng của ta bị phí hoài bởi vì anh; việc đi
cùng với anh đã phá huỷ mọi thứ. Ta sẽ phải làm lại lời cầu nguyện của mình. Và
đối với anh, xin nhớ lấy, đừng bao giờ đến nữa nhé. Tốt hơn cả là anh hãy cứ
ngủ như mọi người khác; ít nhất thì họ cũng không phải là kẻ tội lỗi. Lời cầu
nguyện của anh chỉ làm được mỗi một điều - nó cho anh chìa khoá để lên án người
khác.”
Cái
gọi là người tôn giáo thì chỉ tôn giáo để nhìn vào bạn với con mắt kết án, để
cho người đó có thể nói rằng bạn là kẻ tội lỗi. tới các vị thánh, cái gọi
là vị thánh, và nhìn vào mắt họ xem. Bạn sẽ không tìm thấy cái hồn nhiên
đáng phải có đó. Bạn sẽ thấy tâm trí tính toán nhìn vào bạn và nghĩ về địa ngục:
Anh sẽ bị ném xuống địa ngục còn ta sẽ lên thiên đường, bởi vì ta đã cầu nguyện
nhiều thế, năm lần một ngày, và ta đã nhịn ăn nhiều thế. Cứ như là bạn có thể
mua được thiên đàng…! Đây toàn là những đồng tiền - nhịn ăn, cầu nguyện - đây
là những đồng tiền người ta cố gắng để mặc cả.
Nếu
bạn thấy sự kết án trong mắt vị thánh, hãy biết rõ rằng ông ta là người mới
giầu; ông ta còn chưa là nhà quí tộc của thế giới bên trong, ông ta còn chưa
trở thành một với nó. Ông ta có thể biết nó - nhưng bạn biết điều gì đó chỉ khi
nó tách biệt với bạn.
Một
điều cần phải ghi nhớ ở đây: bởi vì điều này, tự biết là điều không thể được.
Bạn không thể biết cái ta, bởi vì bất kì khi nào bạn biết nó, nó không phải là
cái ta, nó là cái gì đó khác, cái gì đó tách khỏi bạn. Cái ta bao giờ cũng là
người biết, không bao giờ là cái được biết, cho nên làm sao bạn có thể biết nó?
Bạn không thể thu nó về một vật được.
Tôi
có thể thấy bạn. Làm sao tôi có thể thấy mình? Thế thì ai sẽ là người thấy và
ai sẽ là người được thấy? Không, cái ta không thể được biết theo cùng
cách các vật khác được biết.
Tự
biết là không thể được theo nghĩa thông thường, bởi vì người biết bao giờ cũng
siêu việt lên, bao giờ cũng vượt ra ngoài. Bất kì cái gì nó biết, nó cũng không
phải là cái đó. Upanishad nói: neti neti - không
cái này, không cái kia. Bất kì cái gì bạn biết, bạn cũng không là nó; bất kì
cái gì bạn không biết, bạn cũng không phải là nó. Bạn là người biết, và người
biết này không thể bị thu lại là một vật được biết.
Tự
biết là không thể được. Nếu cái hồn nhiên của bạn tới từ cội nguồn bên trong
của bạn thì bạn không thể biết được nó. Nếu bạn đã áp đặt nó từ bên ngoài thì
bạn có thể biết nó; nếu nó chỉ như bộ trang phục bạn mặc vào thì bạn biết
nó, nhưng nó không phải là chính hơi thở của cuộc sống của bạn. Cái hồn nhiên
đó là được trau dồi, và cái hồn nhiên được trau dồi là một điều xấu.
Con
người của Đạo không biết chính mình là tốt và hiền lành. Người đó là sự hiền lành, nhưng người đó không biết; người
đó tốt bụng, nhưng người đó không biết; người đó là tình yêu, nhưng người đó
không biết - bởi vì người yêu và người biết không phải là hai, cái hiền lành,
cái tốt bụng, cái từ bi và người biết, không phải là hai. Không, chúng không
thể bị phân chia thành cái được biết và người biết. Đây là tính quí tộc bên trong:
khi bạn đã trở thành giầu có đến mức bạn không nhận biết về nó. Khi bạn là cái
giầu có đó, không cần phải trưng bầy nó.
Tôi
đã từng nghe:
Có
lần chuyện xảy ra là Henry Ford tới nước Anh. Tại văn phòng hỏi đáp ở sân bay
ông ấy hỏi về khách sạn rẻ tiền nhất trong thành phố. Viên thư kí trong văn
phòng nhìn ra - một khuôn mặt nổi tiếng. Henry Ford nổi tiếng khắp thế giới.
Mới ngày hôm trước đã có một bức hình lớn của ông ấy in trên báo nói rằng ông
ấy sẽ tới. Và ông ấy đây, đang hỏi về khách sạn rẻ nhất, đang mặc bộ áo choàng
trông cũ rích như bản thân ông ấy.
Thế
là viên thư kí nói, “Nếu tôi không lầm thì ông là Ông Henry Ford. Tôi nhớ rõ
lắm. Tôi đã thấy ảnh ông.”
Người
này nói, “Phải.”
Điều
này làm anh chàng thư kí phân vân dữ lắm, và anh ta nói, “Ông đang hỏi khách
sạn rẻ nhất, mặc bộ áo choàng trông cũ rích như ông vậy. Tôi cũng đã thấy con
ông tới đây, và anh ta bao giờ cũng hỏi về khách sạn tốt nhất, và anh ta tới
trong bộ quần áo tốt nhất.”
Henry
Ford nghe nói đã nói, “Vâng, hành vi của con tôi là của kẻ trưng diện, nó vẫn
còn chưa hoà hợp. Không cần cho tôi phải ở khách sạn đắt tiền; dù tôi có ở đâu
thì tôi vẫn là Henry Ford. Thậm chí trong khách sạn rẻ tiền nhất tôi vẫn là
Henry Ford, đâu có khác biệt gì. Con tôi vẫn còn mới, sợ điều mọi người sẽ nghĩ
nếu nó ở khách sạn rẻ tiền. Còn áo này, vâng, nó là của bố tôi - nhưng cũng
chẳng khác biệt gì, tôi không cần quần áo mới. Tôi là Henri Ford, dù với trang
phục gì; thậm chí tôi có đứng trần, tôi cũng vẫn cứ là Henri Ford. Chẳng có gì
khác biệt hết cả.”
Khi
bạn thực sự hoà hợp, thực sự giầu có trong thế giới bên trong, bạn không bận
tâm với việc trưng bầy. Khi bạn lần đầu tiên tới đền chùa, lời cầu nguyện của
bạn có to hơn người khác chút ít. Nó phải như thế. Bạn muốn khoe khoang.
Việc
khoe khoang là một phần của bản ngã, cái bạn đem ra khoe khoang thì không thành
vấn đề. Bạn khoe khoang, bạn trưng bầy. Thế thì bản ngã có đấy, con thuyền
không rỗng - và con người của Đạo là một thuyền rỗng. Người đó hiền lành, không
nhận biết; người đó hồn niên, không biết gì; người đó trí huệ, đó là lí do tại
sao người đó có thể đi như kẻ ngu, không lo nghĩ. Dù người đó là cái gì cũng
không khác biệt, trí huệ của người đó vẫn nguyên lành, người đó có thể đảm
đương được việc là ngu xuẩn. Bạn thì không thể thế được.
Bạn
bao giờ cũng sợ rằng ai đó có thể nghĩ bạn là ngu xuẩn. Bạn sợ rằng nếu người
khác nghĩ bạn là ngu, bạn sẽ bắt đầu hoài nghi về điều đó. Nếu nhiều người nghĩ
bạn là ngu thì sự tự tin của bạn sẽ mất. Và nếu mọi người cứ lặp lại rằng bạn
ngu, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ tin vào điều đó.
Chỉ
người trí huệ mới không thể bị lừa dối, người đó tỏ ra như người ngu.
Tôi
đã nghe nói về một người trí huệ, người nổi tiếng là Người Điên. Chẳng ai biết
điều gì khác về ông ấy cả, tên ông ấy hay bất kì cái gì, ông ấy chỉ được biết
tới là Người Điên. Ông ấy là một người Do thái, và người Do thái đã tạo ra vài
người thực sự trí huệ, người đó có cái gì đó của cội nguồn bên trong. Đó là lí
do tại sao Jesus lại có thể được sinh ra trong số họ.
Người
điên này hành xử theo cách thức ngu xuẩn đến mức toàn bộ cộng đồng trở nên bị
phiền nhiễu bỏi vì chẳng ai biết ông ấy định làm gì tiếp sau cả. Vào những ngày
tôn giáo, ngày Yom Kippur hay ngày lễ khác, cả cộng đồng đều sợ hãi, bởi vì
không thể nào dự đoán được ông giáo sĩ này sẽ làm gì, cách thức ông ấy xuất
hiện ở đó, cách thức ông ấy sẽ hành xử. Lời cầu nguyện của ông ấy cũng điên
luôn.
Có
lần ông ấy triệu tập phiên toà, toà án Do thái, với tất cả mười vị thẩm phán
của toà. Phiên toà mở ra, bởi vì ông giáo sĩ này đã triệu tập, và ông ấy nói,
“Tôi có một đơn kiện Thượng đế, cho nên các vị hãy quyết định trừng phạt cái
tay Thượng đế này. Tôi sẽ nêu ra tất cả các luận cứ để chứng minh rằng Thượng
đế là bất bình đẳng và tội phạm.”
Các
thẩm phán rất sợ hãi nhưng họ phải lắng nghe bởi vì ông ta là giáo sĩ, người
đứng đầu ngôi đền. Và ông ấy nêu ra việc kiện của mình như một luật sư tại toà.
Ông
ấy nói, “Thượng đế, ông đã tạo ra thế giới này, và bây giờ ông lại cử sứ giả
tới bảo chúng tôi cách từ bỏ nó. Ngu xuẩn hết mức! Ông đã cho chúng tôi ham muốn
và bây giờ tất cả các bậc thầy của chúng tôi lại cứ tới và nói: Hãy vô ham
muốn. Vậy thì ông nghĩ ông đang làm gì? Và nếu chúng tôi có phạm phải tội lỗi
nào thì thực sự ông là kẻ tội phạm, bởi vì tại
sao ông lại tạo ra ham muốn?”
Toà
án phải quyết định thế nào đây? Ông ấy phải, nhưng toà án đã quyết định rằng
con người này đã điên hoàn toàn và phải bị đuổi ra khỏi đền.
Nhưng
con người này đang thực sự nói ra chân lí. Ông ấy yêu Thượng đế nhiều đến mức
đấy là quan hệ ta/ngươi, thân mật thế. Ông ấy hỏi, “Ông đang làm gì vậy? Thôi
đủ rồi, bây giờ chấm dứt đi, đừng ngu thêm nữa.” Ông ấy phải đã yêu điều thiêng
liêng nhiều đến mức ông ấy có thể hành xử theo cách đó.
Và
tương truyền rằng Thượng đế lập tức dừng lại khi ông ấy gọi. Ông ấy phải nghe
con người này.
Và
các thần hỏi, “Bỗng nhiên ông ấy dừng lại, có chuyện gì vậy?”
Thượng
đế nói, “Người điên đó đang cầu nguyện. Ta phải lắng nghe, bởi vì bất kì điều
gì người đó nói cũng đều đúng cả, và người đó yêu ta nhiều đến mức không cần lễ
nghi gì cả…” Trong tình yêu, trong căm giận mọi thứ đều được phép, mọi thứ đều
được cho phép.
Người
điên này đi qua đường và một phụ nữ tới ông ấy. Cô ta hỏi, “Tôi đã khát khao và
khao khát một đứa trẻ từ bốn mươi năm nay. Và nếu trong ba hay bốn năm
nữa đứa trẻ không tới, thế thì điều đó sẽ không thể được. Vậy xin hãy
giúp tôi.”
Người
điên nói, “Ta có thể giúp, bởi gì mẹ ta có chuyện rắc rối tương tự. Mẹ ta đã
đợi và đợi bốn mươi năm không đứa trẻ nào tới cả. Thế rồi mẹ ta tới Baal
Shem, nhà huyền môn; mẹ ta bảo ông ấy, và ông ấy đã can thiệp. Mẹ ta cho ông ấy
một cái mũ đẹp. Baal Shem đôi mũ lên đầu, ngước mắt lên và nói với Thượng đế,
‘Ông ấy đang làm gì đấy? Điều này không công bằng. Chẳng có gì sai trong đòi
hỏi của người phụ nữ này, cho nên hãy cho cô ấy một đứa bé.’ Và sau chín tháng,
ta được sinh ra.”
Thế
là người phụ nữ này nói, tươi cười và hạnh phúc, “Tôi sẽ về nhà và tôi sẽ đem
cho ông một cái mũ còn đẹp hơn ông chưa hề thấy. Thế thì đứa trẻ sẽ được
sinh ra cho tôi chứ?”
Người
điên nói, “Cô đã lỡ vấn đề rồi. Mẹ ta chưa bao giờ biết câu chuyện này. Cái mũ
của cô chẳng có tác dụng, cô đã lỡ. Cô không thể bắt chước tôn giáo được, cô
không thể bắt chước lời cầu nguyện được. Một khi cô bắt chước thì cô đã lỡ.”
Cho
nên bất kì khi nào mọi người tới với người điên này, người đó đều nói, “Đừng
bắt chước, hãy vứt đi tất cả kinh sách.”
Khi
người điên này chết ông ấy đã đem tất cả sách vở đã từng được viết về ông ấy ra
đốt hết. Và điều cuối cùng ông ấy làm là nói với đệ tử của mình, “Hãy đi quanh
nhà và tìm xem, và bảo ta rằng không còn lại cái gì nữa, để cho ta có thể chết
thoải mái. Thậm chí đến một bức thư ta viết cũng không đựơc bỏ lại; nếu không
thì sau khi ta chết mọi người sẽ bắt đầu đi theo, và khi các anh đi theo, các
anh lỡ.” Cho nên mọi thứ phải được thu thập lại và đem đốt hết. Thế rồi ông ấy
nói, “Bây giờ ta có thể chết thoải mái, ta không để lại dấu vết gì đằng sau.”
Kiểu
người trí huệ này là không sợ hãi. Làm sao người trí huệ lại có thể sợ bất kì
ai được? Với mọi người, người đó có thể có vẻ như là ngu xuẩn, người đó không
cần trưng bầy trí huệ của mình.
Bạn
đã bao giờ quan sát bản thân mình chưa? Bạn bao giờ cũng cố gắng trưng bầy khôn
ngoan của mình, bao giờ cũng tìm kiếm nạn nhân để bạn có thể khoe hiểu biết của
mình, chỉ tìm kiếm, săn đuổi ai đó yếu hơn bạn - thế rồi bạn sẽ nhảy vào và bạn
sẽ đem ra khoe sự khôn ngoan của mình.
Người
trí huệ không cần là người khoe mẽ. Bất kì cái gì có đấy, nó có đấy. Người đó
không nhận biết về nó, người đó không hấp tấp đem nó ra khoe. Nếu bạn muốn tìm
nó, bạn sẽ phải nỗ lực. Nếu bạn phải biết liệu người đó là hiền lành hay không,
điều đó sẽ là phát hiện của bạn.
Người
đó không tranh giành làm tiền,
và
người đó không tạo ra đức hạnh từ nghèo khó.
Nhớ
điều này. Rất dễ làm tiền và cũng rất dễ tạo ra đức hạnh từ nghèo khó. Nhưng
hai kiểu người này là không khác nhau. Một người cứ làm tiền, và thế rồi bỗng
nhiên anh ta thất vọng. Anh ta đã đạt được, chẳng có gì thu được cả - cho
nên anh ta từ bỏ. Thế thì nghèo khó trở thành đức hạnh, thế thì anh ta sống
cuộc sống của người nghèo và thế thì anh ta nói: Đây là cuộc sống thực duy
nhất, đây là cuộc sống tôn giáo. Con người này vẫn thế, chẳng có gì thay đổi
cả. Con lắc chuyển từ trái nhưng bây giờ đã đi sang cực điểm kia.
Người
đó không tranh giành làm tiền…
Điều
này bạn sẽ hiểu; phần kia thì khó hơn.
…người
đó không tạo ra đức hạnh từ nghèo khó.
Người
đó không nghèo cũng chẳng giầu. Người đó không cố gắng để làm tiền, người đó
không cố gắng để nghèo - bất kì cái gì xảy ra người đó đều cho phép nó xảy ra.
Nếu cung điện xảy ra, người đó sẽ ở trong cung điện; nếu cung điện biến mất,
người đó sẽ không đi tìm nó. Bất kì cái gì xảy ra, người đó sẽ cùng với cái đó,
phúc lạc của người đó không thể bị khuấy động. Người đó không tranh giành làm
tiền, người đó không tranh giành cái nghèo khó.
Người
đó đi con đường của mình không dựa vào kẻ khác,
Điều
này bạn có thể hiểu được dễ dàng.
Người
đó đi con đường của mình không dựa vào kẻ khác,
và
không tự hào mình đi một mình
Bạn
phụ thuộc vào người khác, vợ bạn, con bạn, bố bạn, mẹ bạn, bạn bè, xã hội; thế rồi
bỗng nhiên bạn vứt bỏ mọi thứ và trốn lên Himalayas. Thế rồi bạn bắt đầu tự hào
với chính mình: Ta sống đơn độc, ta không cần bất kì ai, ta thoát khỏi thế giới
đó.
Thậm
chí thế thì bạn cũng vẫn không đơn độc bởi vì cái đơn độc của bạn vẫn còn phụ
thuộc vào thế giới này. Làm sao bạn có thể đơn độc nếu không có xã hội để
từ bỏ? Làm sao bạn có thể đơn độc nếu không có vợ, con, gia đình để bỏ lại đằng
sau? Cái đơn độc của bạn phụ thuộc vào họ. Làm sao bạn có thể nghèo nếu không
có tiền bỏ lại? Cái nghèo của bạn phụ thuộc vào cái giầu của bạn.
Không,
người hoàn hảo, người thực sự là một hiền nhân, con người của Đạo, đi theo
đường của mình không dựa vào người khác. Nếu bạn dựa vào người khác thì
bạn sẽ đau khổ, nếu bạn dựa vào người khác, bạn bao giờ cũng sẽ trong tù túng,
bạn sẽ trở nên phụ thuộc và yếu đuối. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn nên
tự hào về mình rằng bạn đi một mình. đi một mình, nhưng đừng tự hào về
nó. Thế thì bạn có thể đi vào trong thế giới không là một phần của nó.
Thế thì bạn có thể là người chồng không có người chồng. Thế thì bạn có
thể sở hữu không bị sở hữu bởi của cải của bạn. Thế thì thế giới có đó
bên ngoài, nhưng không bên trong. Thế thì bạn có đó, nhưng không bị nó làm biến
chất.
Đây
là tính cô đơn thật sự - di chuyển trong thế giới không bị nó động chạm
tới. Nhưng nếu bạn tự hào, bạn đã lỡ. Nếu bạn nghĩ, “Tôi đã trở thành ai đó,”
thì con thuyền không rỗng, và lần nữa bạn lại rơi vào nạn nhân của bản ngã.
Con
người của Đạo vẫn còn vô danh
Đức
hạnh hoàn hảo tạo ra cái không.
Vô
ngã mới là cái ngã thật
Và
con người vĩ đại nhất là không ai cả
Lắng
nghe đi… Con người của Đạo vẫn còn vô danh. Không phải là không ai biết tới
người đó, nhưng điều đó là tuỳ ở bạn để phát hiện ra người đó. Người đó không
nỗ lực gì để được mọi người biết tới. Nỗ lực để được biết tới là bắt nguồn từ
bản ngã, bởi vì bản ngã không thể tồn tại khi bạn vô danh, nó tồn tại chỉ khi
bạn được biết tới. Nó tồn tại, được nuôi dưỡng, khi mọi người nhìn vào bạn, khi
họ chú ý tới bạn, khi bạn là ai đó quan trọng, có ý nghĩa.
Nhưng
làm sao bạn có thể có ý nghĩa nếu không ai biết tới bạn? Khi toàn bộ thế giới
biết tới bạn, thế thì bạn là có ý nghĩa. Đó là lí do tại sao mọi người lại theo
đuổi danh vọng nhiều thế, và nếu danh vọng không thể đạt tới được thế thì người
ta sẽ lắng sang chiều hướng khét tiếng - nhưng không phải là để vô danh! Nếu
người ta không thể ca ngợi bạn thế thì bạn sẽ lắng sang việc bị lên án, nhưng
bạn không thể chịu được rằng họ sẽ dửng dưng với bạn.
Tôi
đã từng nghe về một chính khách người có lần đã có khá đông người theo. Nhiều
người tán thưởng ông ấy - khi ông ấy còn chưa trở nên có quyền lực…
Khi
bạn không có quyền lực thì bạn có vẻ rất hồn nhiên, bởi vì khi không có quyền
lực thì bạn có thể làm được gì, làm sao bạn có thể che giấu? Cho nên bản chất
thực của bạn chỉ trở nên được mọi người biết tới chỉ khi bạn có quyền lực.
nhìn
vào những người theo Gandhi ở Ấn Độ trước Độc lập - thánh thiện thế. Và bây giờ
mọi sự đã chuyển sang cực đối lập. Bây giờ họ là những người tham nhũng nhất.
Điều gì đã xảy ra? Một luật đơn giản: khi người ta không có quyền lực thì người
ta giống như chim bồ câu, hồn nhiên; khi quyền lực tới thì họ trở thành giống
như rắn, tinh ranh, tham nhũng, lợi dụng.
Bản
tính thực của bạn chỉ được biết tới khi bạn có quyền lực. Khi bạn có thể làm
hại, thế thì nó được biết tới dù bạn có làm hại hay không.
Huân
tước Acton đã nói: Quyền lực tham nhũng, quyền lực tuyệt đối tham nhũng tuyệt
đối. Không, điều đó không phải. Quyền lực chưa bao giờ gây tham nhũng cả, nó
chỉ đem tham nhũng ra thôi. Làm sao quyền lực có thể tham nhũng được? Bạn
đã tham nhũng rồi nhưng không có lối ra cho nó. Bạn đã xấu rồi nhưng bạn vẫn
đứng trong bóng tối. Bây giờ bạn đứng ra ánh sáng, cho nên bạn sẽ nói rằng ánh
sáng làm cho bạn xấu chăng? Không, ánh sáng chỉ làm lộ ra.
…
Chính khách này rất được tán thưởng và yêu mến, ông ấy có nhân cách rất thuyết
phục. Thế rồi ông ấy lên cầm quyền và mọi người chống lại ông ta. Ông ấy bị
tống ra, tên tuổi ông ấy thành khét tiếng, ông ấy bị kết án khắp mọi nơi, cho
nên ông ấy phải rời khỏi thành phố của mình bởi vì mọi người sẽ không cho phép
ông ấy sống ở đó, ông ấy đã làm hại thế.
Thế
là cùng với vợ mình ông ấy đi tìm một chỗ ở mới ở một thành phố mới. Ông ấy đi
tới nhiều thành phố chỉ để xem và cảm thấy đâu có thể ở được. Và thế rồi trong
một thành phố người ta bắt đầu ném đá vào ông ấy. Ông ấy nói, “Đây mới đúng chỗ
đây, chúng ta nên chọn thành phố này.”
Người
vợ nói, “Ông có điên không đấy? Ông có phát rồ không đấy? Mọi người đang ném đá
vào chúng ta.”
Chính
khách nói, “ít nhất thì họ cũng không dửng dưng.”
Dửng
dưng làm bạn bị tổn thương nhất bởi vì bản ngã không thể tồn tại trong dửng
dưng được. Cùng với tôi hay chống lại tôi thì bản ngã có thể tồn tại, nhưng
không dửng dưng với tôi bởi vì thế làm sao tôi có thể tồn tại được, làm sao bản
ngã có thể tồn tại được? Con người của Đạo vẫn còn vô danh. Điều đó có nghĩa là
người đó không tìm kiếm người biết mình. Nếu mọi người muốn biết, họ phải đi
tìm người đó.
Đức
hạnh hoàn hảo tạo ra cái không.
Đây
là một trong những điều cơ bản của cuộc sống người theo Đạo.
Đức
hạnh hoàn hảo tạo ra cái không, bởi vì khi bạn là đức hạnh hoàn hảo thì chẳng
cần gì cả. Khi bạn là đức hạnh hoàn hảo thì không có ham muốn, không có động
cơ. Bạn hoàn hảo. Làm sao cái hoàn hảo lại có thể di chuyển được? Chỉ cái không
hoàn hảo mới di chuyển. Chỉ cái không hoàn hảo mới ham muốn tạo ra cái gì đó.
Cho nên một nghệ sĩ hoàn hảo thì chẳng bao giờ vẽ tranh, một nhạc sĩ hoàn hảo
thì vứt cây đàn sitar của mình đi. Một cung thủ hoàn hảo thì bẻ cung và tên đi,
và một người hoàn hảo như Phật thì hoàn toàn vô dụng. Phật đã tạo ra được cái
gì - thơ ca, điêu khắc, tranh vẽ, xã hội? Ông ấy dường như hoàn toàn không sản
xuất, ông ấy chẳng làm ra cái gì cả.
Đức
hạnh hoàn hảo tạo ra cái không, bởi vì nó cần cái không. Sản xuất đến
từ ham muốn, sản xuất tới bởi vì bạn không hoàn hảo. Bạn tạo ra cái gì đó như
vật thay thế bởi vì bạn cảm thấy không được mãn nguyện. Khi bạn hoàn toàn mãn
nguyện, sao bạn phải sáng tạo, làm sao bạn có thể sáng tạo? Thế thì bản thân
bạn đã trở thành niềm vinh quang của sáng tạo, thế thì bản thể bên trong tự nó
hoàn hảo thế, không còn cần cái gì nữa.
Đức
hạnh hoàn hảo tạo ra cái không. Nếu thế giới này là đức hạnh, mọi mục
tiêu tiện dụng đều sẽ mất. Nếu thế giới này thực sự đức hạnh thì sẽ có chơi đùa
và không có sản xuất. Thế thì toàn thể mọi việc sẽ chỉ trở thành trò chơi. Bạn
thích thú nó, nhưng bạn không cần nó. Một hiền nhân hoàn hảo thì tuyệt đối vô
dụng.
Vô
ngã mới là cái ngã thật
Khi
bạn cảm thấy rằng bạn không hiện hữu, lần đầu tiên bạn mới hiện hữu, bởi vì cái
ta không là gì khác hơn sự đồng nghĩa với bản ngã. Đó là lí do tại sao Phật,
Lão Tử, Trang Tử, tất cả họ đều nói không có cái ta, không có atman. Không phải là không có - họ nói không có atman,
không có cái ta, bởi vì bản ngã của bạn tinh ranh thế, nó có thể ẩn đằng sau
cái đó. Bạn có thể nói, Aham Brahmasmi, ta
là Brahman… Ana’l haq, ta là Thượng đế, và bản
ngã có thể ẩn đằng sau nó.
Phật
nói bạn giống như củ hành: bạn bóc, bạn cứ bóc hết lớp nọ đến lớp kia, và cuối
cùng chẳng còn lại gì. Tâm trí bạn cũng giống như củ hành, cứ bóc ra mãi. Đây
là điều thiền là gì - cứ bóc mãi, bóc mãi, và một khoảnh khắc tới khi chẳng còn
lại gì. Cái không đó là cái ta thực của bạn. Vô ngã mới là cái ngã thật.
Khi con thuyền trống rỗng chỉ thế thì lần đầu tiên bạn mới trong con thuyền.
Và
người vĩ đại nhất là không ai cả
Chuyện
xảy ra là Phật đã từ bỏ vương quốc. Thế rồi ông ấy đi tìm hết khu rừng nọ tới
khu rừng kia, từ tu viện nọ sang tu viện kia, từ thầy nọ sang thầy kia, cứ bước
đi. Trước đây ông ấy chưa bao giờ bước đi không giầy nhưng bây giờ ông ấy
chỉ là một kẻ ăn xin. Ông ấy đi qua bờ sông, bước đi trên cát, và dấu chân ông
ấy bỏ lại sau.
Trong
khi nghỉ lại dưới bóng cây thì một nhà chiêm tinh thấy ông ấy. Nhà chiêm tinh
này đã từ Kashi trở về, từ chỗ học tập. Ông ta đã trở thành rất thiện nghệ
trong chiêm tinh, đã trở thành hoàn hảo, và bây giờ ông ấy đã trở thành một
tiến sĩ chiêm tinh vĩ đại, ông ấy đang trở về thành phố quê hương để thực hành.
Ông ấy nhìn thấy dấu chân trên cát ướt và ông ấy trở nên xáo động: Những dấu
chân này không thể nào thuộc về người thường bước đi trên cát không giầy trong
mùa hè nóng bỏng, vào giữa trưa! Chân này phải thuộc về một vị hoàng đế vĩ đại,
một chakravartin. Chakravartin là vị hoàng đế cai quản toàn
bộ thế giới. Tất cả các biểu tượng có đó đều chứng tỏ rằng con người này là một
chakravartin, một hoàng đế của toàn bộ thế giới sáu lục địa này. Và tại sao một
chakravartin lại bước đi chân trần trên cát trong trưa hè nóng nóng thế? Điều
đó là không thể được!
Nhà
chiêm tinh này đang mang những cuốn sách quí giá nhất của mình. Ông ta nghĩ,
“Nếu điều này là có thể thì mình phải vứt tất cả sách vở này vào dòng sông và
quên chiêm tinh học đi mãi mãi, bởi vì đây là điều ngớ ngẩn. Rất, rất khó tìm
ra một người có chân của chakravartin. Một lần trong hàng triệu năm một người
mới trở thành chakravartin, và chakravartin này đang làm gì ở đây?”
Thế
là ông ấy lần theo dấu chân tới tận ngọn nguồn và ông ấy thấy Phật đang ngồi
nghỉ dưới gốc cây với đôi mắt nhắm, và ông ấy trở nên lại còn xáo động hơn. Nhà
chiêm tinh này trở nên hoàn toàn xáo động bởi vì khuôn mặt ấy cũng là khuôn mặt
của một chakravartin. Nhưng người này lại trông giống như một kẻ ăn xin, với
bình bát ăn xin vẫn kia bên cạnh ông ta, với quần áo rách nát. Nhưng khuôn mặt
thì trông hệt như khuôn mặt của một chakravartin, cho nên ông ấy phải làm gì
đây?
Ông
ấy nói, “Tôi rất xáo động, xin hãy làm cho tôi yên lòng. Chỉ có một câu hỏi tôi
phải hỏi. Tôi đã thấy và nghiên cứu dấu chân ông ấy. Chúng phải thuộc về một chakravartin,
về một vị hoàng đế vĩ đại người cai quản tất cả thế giới, toàn bộ thế giới đều
là vương quốc của người đó - ông ấy thì lại là một kẻ ăn xin. Vậy tôi
phải làm gì đây? Tôi có nên vứt tất cả mọi sách chiêm tinh của mình đi không?
Mười hai năm cố gắng của tôi ở Kashi đã bị phí hoài và những người đó đều là kẻ
ngu xuẩn cả. Tôi đã phí hoài phần quan trọng nhất của đời mình, cho nên xin hãy
làm cho tôi yên lòng. Xin hãy cho tôi biết, tôi phải làm gì?”
Phật
nói, “Ông không cần phải lo nghĩ. Điều này sẽ không xảy ra lần nữa đâu. Ông hãy
đem sách của mình, vào thành phố, bắt đầu thực hành công phu của ông và đừng
bận tâm về tôi. Tôi đã được sinh ra là một chakravartin. Những dấu chân đó mang
quá khứ của tôi.”
Tất
cả các dấu chân đều mang quá khứ của bạn - những đường nét trong tay bạn, trong
lòng bàn tay bạn, đều mang quá khứ của bạn. Đó là lí do tại sao chiêm tinh học,
tướng tay học, bao giờ cũng đúng về quá khứ, không bao giờ đúng đến thế về
tương lai, và tuyệt đối không đúng về vị phật, bởi vì người đã vứt đi toàn bộ
quá khứ của mình thì đi vào cái chưa biết - bạn không thể tiên đoán được tương
lai của người đó.
Phật
nói, “Ông sẽ không gặp một người có chuyện rắc rối như thế lần nữa đâu. Ông
đừng lo nghĩ, điều này sẽ không xảy ra nữa, hãy coi nó là một ngoại lệ.”
Nhưng
nhà chiêm tinh nói, “Xin có một vài câu hỏi nữa. Tôi muốn biết ông là ai: tôi
có thực trong mơ không? Một chakravartin đang ngồi giống như kẻ ăn xin ư? Ông
là ai? Ông có phải là hoàng đế trá hình không?
Phật
nói, “Không.”
Thế
là nhà chiêm tinh lại hỏi, “Nhưng khuôn mặt ông sao đẹp thế, bình thản thế,
tràn đầy với cái im lặng bên trong. Ông là ai? Ông có phải là thiên thần từ
thiên đường không?”
Phật
nói, “Không.”
Nhà
chiêm tinh hỏi một câu hỏi nữa, nói, “Cũng khí vô lễ để hỏi ông, nhưng ông đã
tạo ra ham muốn và sự thôi thúc. Ông có phải là con người không? Nếu ông không
phải là hoàng đế, là chakravartin, nếu ông không phải là deva từ thiên đường, ông có phải là con người
không?”
Và
Phật nói, “Không, ta là không ai cả. Ta không thuộc vào bất kì hình dạng nào,
bất kì tên tuổi nào.”
Nhà
chiêm tinh nói, “Bây giờ ông lại làm xáo động tôi hơn nữa. Ông ngụ ý gì?”
Đây
là điều Phật ngụ ý:
Và
con người vĩ đại nhất là không ai cả
Bạn
có thể là ai đó, nhưng bạn không thể là người vĩ đại nhất. Bao giờ cũng có ai
đó vĩ đại hơn ở đâu đó trên thế giới này. Và ai là người nào đó? Bạn là thước
đo. Bạn nói rằng con người này vĩ đại - nhưng ai là thước đo? Bạn.
Cái
thìa là thước đo cho đại dương. Bạn nói, “Con người này vĩ đại.” Bạn nói, và
nhiều người giống bạn nói, “Con người này là vĩ đại” - và người đó trở thành vĩ
đại bởi vì bạn!
Không.
Trong thế giới này, bất kì ai là một ai đó thì không thể là vĩ đại nhất được,
bởi vì đại dương không thể đo được bằng thìa. Và bạn là chiếc thìa cà phê đo
đại dương. Không, điều đó là không thể được.
Cho
nên người thực sự vĩ đại nhất sẽ là không ai cả trong bạn. Điều này có nghĩa gì
khi Trang Tử nói, “Người vĩ đại nhất sẽ là không ai cả?” Nó có nghĩa là: điều
đó không thể đo lường nổi. Bạn không thể đo được, bạn không thể dán nhãn được,
bạn không thể phân loại, bạn không thể nói, “Đây là ai?” Người đó đơn giản
thoát ra ngoài việc đo lường. Người đó đơn giản vượt ra ngoài, ra ngoài và ra
ngoài và chiếc thìa cà phê rơi xuống đất.
Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục lục