Osho - Đạo: Đường vô lộ (Tập 1)
Chương 5: Không thể có hối tiếc
Khi Linh Ly gần một trăm tuổi, ông ấy mặc chiếc áo choàng da
thú ngay giữa mùa xuân, và đi mót thóc rơivãi bởi người gặt, ca hát khi ông ấy
làm theo cách thức của mình trên cánh đồng. Khổng Tử, đang trong cuộc hành
trình tới Vi, thấy ông ấy từ xa, quay sang các đệ tử của mình ông ấy nói 'Ông
già kia đáng nói chuyện đấy. Ai đó nên đi và xem ông ấy đáng nói gì.'
Tử Cống được yêu cầu là người đi hỏi. Ông ta gặp Linh Ly ở
cuối bến và, nhìn vào mặt ông này, thở dài 'Ông thậm chí không cảm thấy hối tiếc
sao? Vậy mà ông vẫn đi mót thóc, vừa đi vừa hát.' Linh Ly không dừng bước không
dừng hát. Tử Cống tiếp tục nài ép ông này cho tới khi ông này nhìn lên và trả lời
`Ta phải hối tiếc cái gì?' `Là đứa trẻ, ông chưa bao giờ học cách cư xử; Là người,
ông chưa bao giờ cố gắng tạo ra dấu ấn của ông. Không vợ không con ở tuổi già của
ông, Và thời điểm cái chết của ông ở gần.'
'Thầy ơi, thầy có hạnh phúc gì mà thầy phải ca hát khi mót
thóc thế?' 'Lí do cho hạnh phúc của ta là mọi người cùng chia sẻ.
Linh Ly vừa nói vừa mỉm cười 'nhưng thay vì thế, họ lo lắm về
họ. Chính là vì ta đã không nhận đau đớn khi học cư xử khi ta còn trẻ, và không
bao giờ cố gắng tạo ra dấu hiệu của ta khi ta trưởng thành mà ta đã có thể sống
lâu thế. Chính bởi vì ta không có vợ và con trong tuổi già và thời gian của cái
chết của ta ở gần mà ta có thể hạnh phúc thế.'
'Chính con người muốn sống lâu, và ghét chết - sao ông lại hạnh
phúc để chết?' 'Chết là trở về nơi chúng ta đã khởi hành khi chúng ta được sinh
ra. Cho nên làm sao ta biết rằng khi ta chết ở đây ta sẽ không được sinh ra ở
đâu đó khác? Làm sao ta biết rằng sống và chết không phải là tốt lẫn cho nhau?
Làm sao ta biết rằng nài xin sống một cách lo âu không phải là ảo tưởng? Làm
sao ta biết rằng cái chết hiện tại sẽ không tốt hơn kiếp sống quá khứ của ta?'
Tử Cống lắng nghe nhưng không hiểu nghĩa của ông này. Ông ấy
quay về và nói cho Khổng Tử. `Ta biết ông ấy đáng nói chuyện' Khổng Tử nói `và ông
ấy là vậy, nhưng ông ấy là người đã tìm thấy nó, vậy mà không tìm thấy tất cả về
nó.'
Đạo là không hợp lí. Nó không bất hợp lí nữa. Nó là siêu lí.
Cuộc sống là nhiều hơn lí trí. Cuộc sống là nhiều hơn điều có thể được tâm trí
hiểu. Cuộc sống phải cho bạn nhiều hơn điều bạn có thể học. Nó là lớn hơn năng
lực học của bạn. Nó là lớn hơn điều bạn có thể đã từng biết, nhưng nó có thể được
cảm thấy. Đạo là trực giác. Đạo là hơn toàn bộ. Khi bạn tiếp cận cuộc sống qua
cái đầu, và chỉ qua cái đầu, nó là cách tiếp cận bộ phận; hiểu lầm nhất định có
đó.
Người cố hình dung ra nó nhất định rơi vào cái bẫy vô cùng
và sẽ không có khả năng ra khỏi nó dễ dàng. Một khi bạn bắt đầu trí tuệ hoá về
cuộc sống, bạn bắt đầu đi lạc lối. Cuộc sống phải được sống. Cuộc sống phải được
sống một cách tồn tại chứ không một cách trí tuệ. Trí tuệ không phải là cây cầu,
mà là rào chắn.
Điều này phải được hiểu - thế thì chuyện ngụ ngôn này có tầm
quan trọng mênh mông. Và chúng ta sẽ đi vào trong rất chậm chạp, cố gắng hiểu từng
câu trong nó, từng từ một cách thực tại. Cách tiếp cận của Khổng Tử là cách tiếp
cận tâm trí. Cách tiếp cận của Đạo nhân là cách tiếp cận vô trí. Khổng Tử nghĩ
về cuộc sống. Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử, không nghĩ về cuộc sống bởi vì họ nói:
Ông có thể cứ nghĩ và nghĩ về và về, và ông sẽ đi lòng vòng và lòng vòng và ông
sẽ không bao giờ đạt tới trung tâm. Về và về không phải là cách thức. Đi thẳng,
ngay lập tức. Nhìn cuộc sống, không nghĩ về nó.
Bao giờ cũng nhớ, menu không phải là bữa tối. Bạn có thể cứ
nghiên cứu menu - điều đó sẽ không giúp gì. Bạn sẽ phải ăn, bạn sẽ phải nuốt, bạn
sẽ phải tiêu hoá, bạn sẽ phải được kết nối một cách tồn tại với thức ăn, bạn sẽ
phải hấp thu nó vào trong con người bạn, bạn sẽ phải làm nó thành một phần của
con người bạn. Chỉ nghiên cứu menu hay sách nấu ăn sẽ không giúp gì cả. Học giả
cứ nghiên cứu menu: ông ta càng đói, ông ta càng nghiên cứu menu thêm; và, một
cách tự nhiên, học giả vẫn còn là một trong những người đói nhất trong cuộc sống.
Ông ấy chưa bao giờ sống, ông ấy chưa bao giờ yêu, ông ấy chưa bao giờ nhận bất
kì mạo hiểm nào, ông ấy chưa bao giờ di chuyển, chưa bao giờ nhảy múa, chưa bao
giờ mở hội; ông ấy chỉ ngồi đó và nghĩ về nó. Học giả đã quyết định rằng trước
hết ông ấy phải hiểu về mặt trí tuệ, thế rồi ông ấy sẽ đi. Trước hết bạn phải
đi và thế rồi hiểu biết tới.
Nhiều người tới tôi và họ nói rằng họ muốn trở thành sannyasin.
Họ bị hấp dẫn bởi ý tưởng này, họ bị mê mải, nhưng họ phải nghĩ về nó. Một cách
tự nhiên, họ nói rằng trước hết họ phải nghĩ về nó, thế rồi họ sẽ quyết định.
Làm sao bạn có thể nghĩ về tính chất sannyas được? Bạn sẽ nghĩ về cái gì? Nó là
kinh nghiệm bên trong, nó là cái gì đó của không gian bên trong, nó là mối liên
hệ với tôi của cái bên trong; không ai có thể quan sát được nó. Bạn có thể quan
sát các sannyasins, nhưng bạn không thể biết được gì về tính chất sannyas bằng
việc quan sát các sannyasin. Ngay cả bản thân sannyasin cố hình dung nó ra về mặt
trí tuệ, người đó sẽ không có khả năng làm vậy. Tính chất sannyas phải được nếm
trải - ngay cả thế vẫn rất khó giải thích nó về mặt trí tuệ. Nhưng nghĩ về nó
mà không đi vào nó là điều không thể được. Cứ dường như ai đó nói 'Trước hết tôi
sẽ phải biết về yêu và thế rồi tôi sẽ yêu.' Làm sao bạn sẽ biết về yêu? Cách
duy nhất để biết về yêu là rơi vào tình yêu - không có cách khác. Bạn có thể đi
tới thư viện, bạn có thể hỏi nhiều người, bạn có thể tư vấn sách vở và bách khoa
toàn thư, và bạn sẽ thấy cả nghìn lẻ một thứ về yêu, nhưng không phải là yêu. Bạn
có thể trở nên quá nhiều tính học giả, tâm trí bạn có thể trở nên được nhồi
nhét với thông tin; nhưng thông tin không phải là việc biết.
Tri thức không phải là việc biết. Nó có thể lừa dối bạn, nhưng
nó không thể lừa dối được cuộc sống. Khi có liên quan tới cuộc sống bạn sẽ vẫn
còn là sa mạc - hoa của tình yêu sẽ không bao giờ nở trong bản thể bạn. Điều đó
cũng vậy với tính chất sannyas. Điều đó cũng vậy với mọi thứ có ý nghĩa. Điều
đó cũng vậy với mọi thứ có tính hữu cơ.
Điều đó cũng vậy với mọi thứ đang sống. Đây là quan điểm cơ
bản của Đạo.
Bây giờ chuyện ngụ ngôn này.
Khi Linh Ly gần một trăm tuổi, ông ấy mặc chiếc áo lông thú
ngay giữa mùa xuân, và đi mót thóc rơi vãi bởi người gặt, ca hát khi ông ấy làm
theo cách thức của mình trên cánh đồng. Linh Ly là một Đạo sĩ, nhưng như các Đạo
sĩ, họ sống cuộc sống rất bình thường. Họ không sống theo cách phi thường, họ
không nói rằng họ là người đặc biệt, thiên tài, hiền nhân, thánh nhân, mahatma;
họ không tuyên bố cái gì cả. Họ đơn giản sống cuộc sống rất bình thường bởi vì
họ là những người tự nhiên: tự nhiên như cây cối, tự nhiên như chim chóc, tự
nhiên như bản thân tự nhiên. Họ không trong bất kì cách thức bản ngã nào. Chẳng
hạn, nếu ở Ấn Độ bạn muốn tìm ra chỗ mahatma ở bạn có thể dễ dàng tìm thấy họ.
Nhưng nếu bạn đã tới thăm Trung Quốc cổ đại và muốn biết một Đạo sĩ, không ai sẽ
có khả năng nói cho bạn sẽ tìm một người đó ở đâu. Bạn phải nhìn, di chuyển, đi
lang thang khắp nước... và đôi khi bạn có thể bắt gặp một người. Nhưng không có
cách nào trừ phi bạn đã kinh nghiệm cái
gì đó về nó trong bản thể riêng của bạn. Chừng nào bạn còn chưa có hương vị,
hương thơm, bạn sẽ không có khả năng nhận ra Đạo sĩ.
Linh Ly là một Đạo sĩ - rất đơn giản, rất già, rất cổ đại; một
trăm tuổi rồi và ông ấy vẫn đi mót thóc do người gặt làm rơi vãi. Bây giờ đây
là việc làm thấp kém nhất mà người ta có thể thấy, mang tính ăn xin nhiều nhất
vậy mà... ...ca hát khi ông ấy làm theo cách thức của mình trên cánh đồng.
Đạo nhân bao giờ cũng hạnh phúc bởi vì người đó không chờ đợi
bất kì nguyên nhân nào: ông ấy không đợi bất kì tình huống đặc biệt nào trong
đó ông ấy sẽ hạnh phúc. Hạnh phúc giống như thở, hạnh phúc giống như nhịp tim đập
- hạnh phúc là bản thể của ông ấy, nó không phải là cái gì đó xảy ra cho ông ấy.
Hạnh phúc không phải là cái gì đó xảy ra và không xảy ra, hạnh phúc là cái gì
đó bao giờ cũng có đó rồi. Ông ấy tràn đầy hạnh phúc. Hạnh phúc là chất liệu mà
sự tồn tại được tạo nên; và Đạo nhân đã rơi vào trong hài hoà với sự tồn tại -
một cách tự nhiên ông ấy hạnh phúc. Bất kì cái gì ông ấy làm, ông ấy đều làm nó
một cách hạnh phúc. Hạnh phúc của ông ấy đi trước hành động của ông ấy.
Đôi khi bạn hạnh phúc và đôi khi bạn bất hạnh - bởi vì hạnh
phúc của bạn là có điều kiện. Khi bạn thành công bạn hạnh phúc, khi bạn thất bại
bạn bất hạnh; hạnh phúc của bạn phụ thuộc vào nguyên nhân bên ngoài. Bạn không
thể luôn luôn ca hát được; cho dù bạn hát, bài hát của bạn sẽ không phải bao giờ
cũng có việc hát. Đôi khi nó sẽ thực sự là vui mừng và đôi khi chỉ là lặp lại,
chết và đờ đẫn. Đôi khi, khi người bạn tới, khi bạn tìm thấy người yêu, bạn hạnh
phúc. Đôi khi, khi người bạn đã đi, người yêu mất, bạn bất hạnh. Hạnh phúc và bất
hạnh của bạn đều có nguyên nhân từ bên ngoài - nó không phải là dòng chảy bên
trong, nó không phải là cái gì đó bạn sở hữu. Nó được trao cho bạn bởi người
khác và bị lấy đi, được trao cho bạn bởi hoàn cảnh và bị lấy đi. Điều này không
đáng gì bởi vì bạn vẫn còn là nô lệ, bạn không là người chủ.
Đạo nhân gọi một người là người chủ nếu hạnh phúc của người
đó là tuyệt đối của riêng người đó. Ông ấy có thể hạnh phúc bất chấp tình huống:
trẻ ông ấy hạnh phúc, già ông ấy hạnh phúc; là quân vương ông ấy hạnh phúc, là
kẻ ăn xin ông ấy hạnh phúc. Bài ca của ông ấy không bị nhiễm bẩn bởi hoàn cảnh;
bài ca của ông ấy là của riêng ông ấy, bài ca của ông ấy là nhịp tự nhiên của
ông ấy.
Người này, một trăm tuổi rồi... Bình thường, người một trăm
tuổi sẽ không có khả năng hát - cái gì có đó để hát bây giờ? Cuộc sống đã biến
mất, cuộc sống đã tiêu tan dần, người đó khô héo gần như bộ xương, và không có
gì để hi vọng vì chỉ cái chết sắp tới. Ca hát, mở hội - để làm gì? Người một
trăm tuổi không có tương lai: cuộc sống của người đó đã được dùng rồi, người đó
đã cạn kiệt, bất kì khoảnh khắc nào cái chết sẽ đánh gục người đó. Vì ai? Để làm
gì? Vì lí do gì một người có thể ca hát như thế? Và vào độ tuổi một trăm người
phải đi và làm công việc kiểu ăn xin thế... người ta phải đi mót thóc do người
gặt làm rơi vãi. Điều đó nghĩa là không ai có đó để chăm sóc ông già này. Ông ấy
bị bỏ lại một mình - dường như không gia đình, không con trai, không con gái,
không vợ, không anh em; không ai chăm sóc ông ấy cả. Cái gì có đó để mà ca hát?
Nhưng nếu bạn có bài ca - bài ca thực, bài ca nảy sinh từ cốt
lõi bản chất của bạn, trung tâm bên trong nhất của bạn - thế thì chẳng thành vấn
đề. Bạn có thể cứ ca hát cho dù khi cái chết giáng xuống. Bạn có thể cứ ca hát
cho dù ai đó giết bạn. Thân thể bạn có thể bị giết, nhưng không phải bài ca của
bạn. Thân thể bạn có thể bị cầm tù, nhưng không phải bài ca của bạn. Bài ca của
bạn là vĩnh hằng vì nó vô nguyên nhân.
Nhớ luật rất nền tảng này của cuộc sống: Cái có nguyên nhân
không bao giờ vĩnh hằng, cái có nguyên nhân thuộc vào thời gian. Khi nguyên
nhân biến mất, nó sẽ biến mất; nó là sản phẩm phụ. Cái vô nguyên nhân sẽ là mãi
mãi và mãi mãi, bởi vì không có gì có thể phá huỷ được nó. Thân thể bạn sẽ chết
- nó đã có nguyên nhân; gặp gỡ của bố bạn
và mẹ bạn đã là nguyên nhân của nó. Thân thể bạn sẽ chết: một ngày nào đó nó đã
có nguyên nhân. Nó có năng lượng nào đó, khoảng sống nào đó, thế thì nó sẽ bị kết
thúc. Mọi ngày bạn đều đang chết, một ngày nào đó bạn sẽ đơn giản biến mất
trong nấm mồ.
Nhưng đó có phải là mọi điều bạn có không? Có phải tất cả những
cái đó là bản thể bạn không? Không có cái gì đó hơn nữa sao? Có cái gì đó trong
bạn mà có trước cả khi bạn được sinh ra, và sẽ có đó ngay cả sau khi bạn đã đi
mãi mãi rồi. Sau khi bạn đã chết, cái đã có trước việc sinh của bạn sẽ còn lại
- cái đó là vô nguyên nhân. Đó là lí do tại sao Đạo nhân không tin rằng Thượng
đế tạo ra thế giới, rằng Thượng đế tạo ra con người, rằng Thượng đế tạo ra linh
hồn. Nếu Thượng đế đã tạo ra linh hồn thế thì chúng là có nguyên nhân và một
ngày nào đó chúng sẽ biến mất - dù ngày đó có thể xa xôi thế nào thì cũng không
quan trọng. Nếu thế giới mà có nguyên nhân và con người đã từng được tạo ra, thế
thì một ngày nào đó thế giới sẽ không được tạo ra và con người sẽ không được tạo
ra. Đạo nhân nói 'Cái là vĩnh hằng, là vô nguyên nhân, không được tạo ra' -
chúng không có đấng sáng tạo. Thực ra, không ai đã bao giờ đạt tới đỉnh đó, đỉnh
siêu phàm đó, của hiểu biết như Đạo nhân đã có. Mọi tôn giáo khác đều có vẻ
chưa trưởng thành. Trưởng thành của Đạo nhân là vô cùng thế, là huy hoàng thế,
là có chiều sâu và chiều cao tới mức không tôn giáo nào khác có thể được so
sánh với nó; chúng tất cả có vẻ như vườn trẻ - đặc biệt được làm cho trẻ con. Đặc
biệt được làm cho trẻ con, đó là lí do tại sao
Thượng đế là 'cha', trẻ con không thể độc lập được, chúng cần người bố.
Nếu người bố thực của bạn mà biến mất thế thì bạn sẽ cần người cha tưởng tượng
trên trời để kiểm soát bạn: bạn còn chưa đủ trưởng thành, bạn không thể sống theo
cách riêng của bạn được, bạn phải học ai đó hay người khác.
Đạo nhân không có quan niệm về Thượng đế - không phải là họ
vô thượng đế, họ là những người thượng đế nhất - nhưng họ không có quan niệm về
Thượng đế; sự tồn tại là đủ. Không có đấng sáng tạo, có vĩnh hằng. Điều này bao
giờ cũng vậy, điều này bao giờ cũng sẽ vậy. Một khi bạn đã đi vào tiếp xúc với
cái liên tục vĩnh hằng này bên trong bản thể bạn, cái nền móng, thế thì không
có gì là khổ cả.
Bạn là vĩnh hằng, bạn là bất tử, không có cái chết cho bạn bởi
vì chưa bao giờ có việc sinh nào. Bạn không được tạo ra, bạn không thể bị phá
huỷ. Bất kì cái gì là hoàn cảnh bên ngoài, ánh sáng bên trong của bạn cứ cháy
sáng và bài ca tiếp diễn.
Khổng Tử, đang trong cuộc hành trình tới Vi, thấy ông ấy từ
xa, quay sang các đệ tử của mình ông ấy nói'Ông già kia đáng nói chuyện đấy. Ai
đó nên đi và xem ông ấy phải nói gì.' Khổng Tử bao giờ cũng trong tìm kiếm tri
thức. Ông ấy bao giờ cũng trong tìm kiếm ai đó người có thể nói cái gì đó cho
ông ấy, ông ấy bao giờ cũng sẵn sàng vay mượn tri thức. Đó là cách người trí thức
vận hành: mọi điều người đó có là vay mượn; người đó chưa bao giờ nhìn vào bên
trong, người đó cứ nhìn ra ngoài - 'Nếu ai đó có nó, thế thì mình phải đi và hỏi.'
Người trí thức là bắt chước, máy móc, như vẹt; với người trí thức, tri thức là
cái gì đó phải được học. Người đó chưa bao giờ nhìn vào bên trong bản thể riêng
của mình, người đó chưa bao giờ nhìn vào tâm thức bên trong riêng của bạn; người
đó chưa bao giờ hiểu người biết. Người đó theo sau tri thức - và có khoảng
cách.
Đạo nhân không theo sau tri thức, nhưng ông ấy muốn biết: Người
biết này là ai? Việc biết này là gì? Ông ấy muốn biết cội nguồn của việc biết
này, nơi tâm thức đang nảy sinh ra. Bạn ở đây, bạn đang nghe tôi. Bây giờ, bạn
có thể hoặc là một Khổng Tử hay một Đạo nhân bởi vì chỉ có hai quan điểm có thể.
Nếu bạn nghe tôi và bạn trở nên ngày càng quan tâm tới điều tôi đang nói và bắt
đầu thu thập nó, thế thì bạn là một Khổng Tử. Nhưng nếu trong khi bạn ở đây
nghe tôi - cảm thấy sự hiện diện của tôi, nhìn vào mắt tôi - bạn trở nên nhận
biết về tâm thức ở bên trong bạn, sự chú ý ở bên trong bạn và bạn trở nên mê mải
bởi điều đang đó và việc truy hỏi sâu sắc nảy sinh: Tôi là ai...? Không phải là
bạn phải lặp lại lời 'Tôi là ai?' nhưng một việc truy hỏi sâu sắc, việc truy
tìm nảy sinh; niềm đam mê để biết: Ai là tâm thức này trong tôi? Tâm thức này
là gì trong tôi?
Bản chất của nó là gì? Phẩm chất của nó là gì? Nó từ đâu tới?
Nó đi đâu...? Nếu đam mê này để biết tâm thức bạn nảy sinh, bạn là Đạo nhân. Và
duy nhất Đạo nhân là người tôn giáo. Người kiểu Khổng Tử là học giả, người đó
là bác học, người đó là giáo sư. Nếu bạn nói với người đó, người đó sẽ nói về
những điều lớn lao; nhưng nếu bạn nhìn vào bản thể người đó, chẳng có gì cả. Mọi
điều người đó đã thu thập đều vay mượn. Lặp đi lặp lại Đạo nhân viết chuyện
trong đó Khổng Tử đi từ đâu đó tới đâu đó, bao giờ cũng du hành, tích luỹ, và
bao giờ cũng nhìn từ đâu đó người đó có thể lấy tri thức - cứ dường như tri thức
là hàng hoá, cứ dường như tri thức là thứ bạn có thể kiếm được ở đâu đó, từ ai
đó.
Không ai có thể cho bạn tri thức. Nó không phải là thứ được
truyền cho. Bạn phải trở thành nó, bạn phải trưởng thành trong việc biết; nó là
biến đổi bên trong. Không đại học nào có thể cho bạn cái mà các tôn giáo gọi là
'biết thực'. Bất kì cái gì bạn có thể có được từ các đại học đều là thông tin -
cũ rích, vay mượn, bẩn thỉu, bởi vì nó đã qua hàng nghìn bàn tay; nó giống như
tiền giấy. Đó là lí do tại sao tiền giấy được gọi là 'tiền lưu hành': bởi vì nó
cứ đi như dòng chảy từ tay này sang tay khác, từ túi người này sang túi người
khác. Nhưng thế thì nó cứ trở nên ngày càng bẩn hơn. Cũng vậy với tri thức:
trong nhiều thế kỉ, nó đi từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thế hệ giáo sư này
sang thế hệ giáo sư khác.
Việc biết là tươi tắn, việc biết là từ cội nguồn. Và cội nguồn
đó là sống động trong bạn, chờ đợi bạn quay vào. Đừng tìm nó ở bên ngoài - nhìn
vào bên trong đi. Đó là điều Jesus cứ nói 'Vương quốc của Thượng đế là ở bên trong
ông.'
Khổng Tử, đang trong cuộc hành trình tới Vi, Ông ấy bao giờ
cũng trong hành trình, tìm, kiếm tri thức. Ông ấy đi tới mọi người. Bất kì chỗ
nào ai đó nói rằng ai đó đã đạt tới tri thức, ông ấy đều đi tới đó. Điều này là
đần độn, điều này là ngu xuẩn, nhưng điều này là ngu xuẩn mà mọi học giả đều
có. Họ về căn bản đều mang tâm trí là tri thức có thể được mua. Họ về căn bản đều
mang tâm trí rằng tri thức là một vật, không phải là kinh nghiệm; là lí thuyết,
không phải là kinh nghiệm. Cho nên người ta có thể học nó từ ai đó khác. Nhớ một
điều: đó là khác biệt giữa tri thức khoa học và tri thức tôn giáo. Một khi ai
đó đã khám phá ra luật hấp dẫn, mọi người không phải khám phá nó lặp đi lặp lại
- điều đó sẽ là ngu xuẩn. Bạn không thể đi ra thế giới và tuyên bố 'Điều Newton
đã khám phá ra, tôi đã khám phá lại nó. Vâng, luật hấp dẫn... tôi đã thấy quả táo
rơi, và tôi đã lại phát hiện ra luật hấp dẫn.' Mọi người sẽ cười. Họ sẽ nói
'Bây giờ chẳng có gì để khám phá cả.
Khám phá cái gì đó khác mà còn chưa được khám phá trước
đây.' Khoa học là thông tin. Nếu một người đã khám ra rồi, thế thì nó có thể được
truyền cho mọi người. Tri thức mà khoa học tìm kiếm là về bên ngoài, cho nên nó
có thể được học từ bên ngoài. Nhưng tôn giáo phải được khám phá lặp đi lặp lại.
Nó giống như yêu: hàng triệu người đã yêu trước bạn, nhưng chừng nào bạn chưa
yêu, bạn sẽ không bao giờ biết nó là gì. Bạn không thể nói hàng triệu người đã
yêu, cho nên phỏng có ích gì cho tôi yêu lần nữa? Tại sao đi vào cùng đường
mòn? Nhiều người thế đã yêu và họ đã viết nhật kí của họ, và thư tình của họ là
sẵn có - chúng tôi có thể nhìn vào sách đó và có tri thức.' Nhưng không, bạn sẽ
phải yêu, bạn sẽ phải khám phá lại nó. Chừng nào bạn chưa khám phá nó, nó sẽ
không bao giờ là việc biết. Tôn giáo giống như tình yêu; nó không như khoa học.
Einstein đã phát hiện ra lí thuyết tương đối, bây giờ kết thúc - không ai khác
được cần để khám phá lại nó bây giờ. Điều có thể đã mất năm mươi năm cho một
nhà khoa học khám phá, một học sinh phổ thông có thể học trong vòng năm phút.
Nhưng đó không phải là cách thức của tôn giáo. Điều Phật đã
phát hiện ra, điều Lão Tử đã khám phá ra, Liệt Tử đã khám phá ra, bạn sẽ phải
khám phá lại. Khổng Tử đang trên đường sai. Khổng Tử được dùng trong chuyện Đạo
như trò tiếu lâm.
Khổng Tử, đang trong cuộc hành trình tới Vi, thấy ông ấy từ
xa, quay sang các đệ tử của mình ông ấy nói 'Ông già kia đáng nói chuyện đấy.' Tại
sao? Bởi vì một trăm tuổi, làm việc thấp kém nhất - và vẫn hát sao? 'Đi và hỏi
lí do là gì cho hạnh phúc của ông ấy - sao ông ấy hạnh phúc, sao ông ấy ca hát,
để cho chúng ta có khả năng suy ra luật; kĩ thuật nào đó có thể được khám phá.'
Ai đó nên đi và xem ông ấy đáng nói gì.'
Tử Cống được yêu cầu là người đi hỏi - một trong các đại đệ
tử của Khổng Tử. Ông ta gặp Linh Ly ở cuối bến và, nhìn vào mặt ông này, thở
dài 'Ông thậm chí không cảm thấy hối tiếc sao? Vậy mà ông vẫn đi mót thóc, vừa
đi vừa ca hát.'' Vậy mà ông vẫn đi mót thóc, vừa đi vừa hát.' 'Ông thậm chí
không cảm thấy hối tiếc sao?' - bởi vì với đệ tử của Khổng Tử người này dường
như chẳng có gì để hạnh phúc cả. Người đó đáng phải khóc, điều đó mới logic.
Người đó đáng phải khóc, điều đó sẽ là hợp lí.
Nhưng ca hát, mót thóc, một trăm tuổi rồi, đang chờ chết - bạn
còn cần gì hơn để mà buồn thảm? Ông ấy đáng phảihoàn toàn khổ, điều đó sẽ là
logic. Điều này là phi logic, nhưng Đạo nhân là những người phi logic. Và tôi
muốn bạn trở thành phi logic bởi vì chỉ người phi lohic mới đủ may mắn để hạnh
phúc. Các nhà logic chưa bao giờ hạnh phúc, họ không thể hạnh phúc được: họ đã
lấy con đường sai từ chính ban đầu. Họ nghĩ rằng vì mọi thứ khác đều có nguyên
nhân, hạnh phúc cũng phải có nguyên nhân nữa - đó là quan điểm sai của họ.
Hạnh phúc chỉ cần hiểu biết, không nguyên nhân khác. Và hiểu
biết cũng không phải là nguyên nhân của nó, hiểu biết đơn giản làm lộ nó ra; nó
là ở bên trong bạn. Hiểu biết đơn giản loại bỏ tấm màn và đột nhiên nó có đó -
người yêu của bạn ở bên trong bạn; điều đó phải được làm lộ ra, có vậy thôi. Việc
làm lộ ra không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân nghĩa là nó phải được tạo ra;
làm lộ ra đơn giản nghĩa là nó đã có đó, nhưng bạn đủ ngu xuẩn để không làm lộ
nó ra.
Cách tiếp cận kiểu Khổng Tử này hướng tới cuộc sống phải được
hiểu bởi vì nhiều người trong các bạn nhất định là ở trong toán của Khổng Tử.
Toàn thể phương Tây đều mang tính Khổng Tử, logic, trí tuệ. Cách tiếp cận của Khổng
Tử được dựa trên ý tưởng rằng chân lí phải đượchọc, rằng vấn đề chỉ là việc học:
nếu bạn học tốt bạn sẽ biết chân lí là gì. Không, Đạo nhân nói chân lí phải được
sống, không được học. Chân lí phải được kinh nghiệm: chỉ bằng việc trở thành
thông thái hơn bạn sẽ không biết nó. Thực ra, để có chân lí bạn sẽ phải trải
qua việc dỡ bỏ, bạn sẽ phải xoá sạch tâm trí bạn. Bất kì cái gì bạn đã học đều
vận hành như khối chắn. Bạn sẽ lại phải trở nên dốt nát, bạn sẽ phải trở thành
hồn nhiên, bạn sẽ phải vứt bỏ mọi cái vô nghĩa này mà bạn đang mang nhân danh
tri thức. Bạn không biết gì, nhưng bạn nghĩ dường như bạn biết; cái 'dường như'
này là vấn đề. Ai đó hỏi bạn 'Bạn có biết Thượng đế không?' và bạn nói 'Có.' Bạn
đã bao giờ nghĩ bạn đang nói gì không? Bạn có thực biết không? Nhưng bạn giả vờ.
Bạn định lừa ai?
Tôi đã nghe một giai thoại hay:
Một gã thô bạo đi bộ vào trong phòng khách ánh sáng mờ mờ.
'Có ai ở đây tên là Donovan không?' gã ta sừng sộ. Không ai trả lời. Lần nữa gã
ta sừng sộ 'Có người nào ở đây tên là Donovan không?' Một khoảng khắc im lặng
và thế rồi một anh chàng nhỏ bé tiến ra. 'Tôi là Donovan' anh ta nói. Thằng cha
thô bạo túm anh ta lên và ném anh ta qua
chấn song. Thế rồi gã đấm vào quai hàm anh ta, đá anh ta, đánh anh ta,
tát anh ta khắp mình rồi bước ra. Mười lăm phút sau anh chàng nhỏ bé tới. 'Các
bạn, tớ đã lừa nó' anh ta nói. 'Tớ không phải là Donovan.'
Bạn lừa ai? Bạn sẽ chỉ lừa bản thân mình thôi, không ai
khác. Nhớ thực rõ điều bạn biết và điều bạn không biết. P. D. Ouspensky, trong
một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông ấy, Tertium organum, nói rằng
với người tìm kiếm điều đầu tiên cần quyết định là cái gì người đó biết và cái
gì người đó không biết - điều đầu tiên cần quyết định. Một khi quyết định đó đã
được đưa ra mọi sự trở nên rất rõ ràng. Bạn có biết Thượng đế không? Bạn có biết
bản thân mình không? Bạn có biết yêu là gì không? Bạn có biết sống là gì không?
Nhưng con người cứ giả vờ rằng người đó biết, bởi vì điều rất đau là biết rằng
bạn không biết, điều làm tan tành bản ngã là bạn không biết: Bản ngã giả vờ, bản
ngã là kẻ giả vờ lớn nhất có đó; nó giả vờ, nó nói 'Có, tôi biết.' Có những người
biết nói không có Thượng đế, có những người biết nói có Thượng đế, nhưng cả hai
đều là người biết. Khi có liên quan tới tri thức, người hữu thần và người vô thần
là không khác nhau theo bất kì cách nào. Nếu bạn đi tới Ấn Độ và bạn hỏi mọi
người - bất kì ai - họ sẽ nói 'Có, có Thượng đế.' Nếu bạn đi tới Nga và hỏi bất
kì ai, họ sẽ nói rằng họ biết không có Thượng đế. Nhưng một điều là chắc chắn,
cả hai đều 'biết' - và đó là vấn đề.
Người hữu thần và người vô thần là không đối lập. Họ không
phải là kẻ thù, họ là đối tác trong cùng trò chơi, bởi vì cả hai đều giả vờ rằng
họ biết. Con người thực của hiểu biết sẽ không giả vờ rằng người đó biết, và thế
thì có khả năng một ngày nào đó để biết. Bắt đầu từ dốt nát, và một ngày nào đó
bạn có thể đủ may mắn để biết. Bắt đầu với tri thức, và điều này là chắc chắn:
rằng bạn sẽ không bao giờ có khả năng biết.
Người theo Khổng Tử cứ cố học. Đạo nhân cứ cố dỡ bỏ. Linh Ly
không dừng bước không dừng hát. Tử Cống tiếp tục nài ép ông này cho tới khi ông
này nhìn lên và trả lời `Ta phải hối tiếc cái gì?' Đầu tiên ông ấy thậm chí
không dừng bài ca để nghe điều người này hỏi, bởi vì Đạo nhân không quan tâm tới
người tò mò. Họ nói rằng tò mò chẳng dẫn tới đâu cả, tò mò là bệnh; tò mò là
không đủ - tò mò không phải là truy hỏi. Truy hỏi nghĩa là bạn đã đặt cuộc sống
của mình vào lâm nguy. Truy hỏi nghĩa là bạn không chỉ là học sinh mà là đệ tử.
Truy hỏi nghĩa là nó không chỉ là ý thích bất chợt nảy ra mà bạn hỏi; bạn đã sẵn
sàng đi vào trong nó với bất kì giá nào. Bạn sẵn sàng trả giá cho nó; nó không
phải chỉ là giải trí.
Linh Ly không dừng bước không dừng hát. Ông ấy đã không chú
ý gì tới người tò mò này, người đang hỏi 'Sao ông hát? Ông có gì mà hạnh phúc?'
bởi vì nếu người này thực sự là con người của truy hỏi, người này sẽ không nhảy
lên ông ấy một cách bất thần như thế. Người này sẽ chờ đợi, người này sẽ tới Thầy,
ngồi bên cạnh Thầy, người đó sẽ đợi.
Trong giới Đạo nhân đây là chuẩn chấp nhận được rằng khi đệ
tử tới Thầy người đó phải đợi, chừng nào Thầy còn chưa hỏi người đó 'Ông tới để
làm gì?' Và Thầy sẽ chỉ hỏi khi thầy đã kiểm tra rằng bạn bây giờ không tò mò,
bạn có truy hỏi; rằng bạn không nhân tiện mà tới, rằng tìm kiếm của bạn không
phải là hờ hững, mà nó mãnh liệt - rằng bạn đang cháy, rằng bạn sẵn sàng bùng nổ.
Chỉ thế thì Thầy sẽ hỏi 'Sao ông đã tới? Truy hỏi của ông là gì?'
Đây không phải là cách tiếp cận tới Thầy - và hỏi câu hỏi
ngu xuẩn thế! Câu hỏi này là ngu xuẩn: hỏi 'Sao ông hạnh phúc?' Câu hỏi này là
ngu xuẩn; cái 'tại sao' là vô nghĩa. Nếu ai đó khổ, bạn có thể hỏi 'Sao bạn khổ?'
Nhưng nếu ai đó hạnh phúc bạn không thể hỏi 'Sao bạn hạnh phúc?' Ai đó ốm, hỏi
'Sao bạn ốm?' - câu hỏi này là có liên quan; nhưng nếu ao đó mạnh khoẻ bạn
không thể hỏi 'Sao bạn mạnh khoẻ?' - câu hỏi này là không liên quan. Mạnh khoẻ
là như nó đáng phải vậy, hạnh phúc là như nó đáng phải vậy. Nếu ai đó đã phát
điên, bạn có thể hỏi tại sao người đó đã điên, và nếu người đó là ai đó lành mạnh
bạn không hỏi 'Sao bạn lành mạnh? Bạn có gì để được lành mạnh?' - điều đó là vô
nghĩa. Khi bạn tiếp cận tới người hạnh phúc, người thực sự hạnh phúc, bạn phải
nhìn thẳng thay vì tạo ra màn khói các câu hỏi. Bạn phải chờ đợi thầy, bạn phải
mời thầy, bạn phải uống năng lượng đang tuôn chảy quanh thầy; bạn phải nếm trải
lễ hội đang xảy ra ở đó, bạn phải cho phép sự hiện diện của thầy xuyên thấy vào
bản thể bạn, bạn phải vận hành như cái bọt biển thấm đẫm sự hiện diện của Thầy
- cái đó sẽ là câu trả lời.
Bây giờ đây là ngu xuẩn, nhưng tôi đã bắt gặp hàng triệu người
như thế. Tôi hay đi khắp nước và thậm chí ở mọi ga xe lửa.... Tôi đi để đón
chuyến tàu hoả thì có ai đó đuổi theo sau tôi và nói 'Có thực có Thượng đế
không? Thượng đế có tồn tại không?'
Tôi đã đón chuyến tàu và tàu của tôi sắp đi. Tôi nói 'Bạn tới
sau nhé.' Anh ta nói 'Nhưng xin cho một câu trả lời. Một câu cũng được.' Dường
như việc tôi nói 'có' hay 'không; sẽ tạo ra khác biệt gì. Những người ngu xuẩn,
người đần: họ nghĩ họ là tôn giáo, họ đang làm 'việc truy hỏi lớn lao'.
Đó là lí do tại sao, Linh Ly không dừng bước không dừng hát.
Tử Cống tiếp tục nài ép ông này cho tới khi ông này nhìn lên và trả lời `Ta phải
hối tiếc cái gì?' Bây giờ nhìn vào thay đổi này. Tử Cống hỏi 'Ông có gì mà hạnh
phúc?' và Thầy nói 'Ta có gì để bất hạnh?' thay đổi toàn bộ - quay ngoắt một
trăm tám mươi độ. Và điều ông ấy nói.... Bốn câu này là nhiều lắm, bạn không thể
tìm được những câu nổi dậy nhiều hơn những câu này ở đâu cả.
Nghe đây.
`Là đứa trẻ, ông chưa bao giờ học cách cư xử; Ông ấy nói
'Đây là những điều ông nên nhìn vào...' `Là đứa trẻ, ông chưa bao giờ học cách
cư xử; Là người, ông chưa bao giờ cố gắng tạo ra dấu ấn của ông. Không vợ không
con ở tuổi già của ông, Và thời điểm cái chết của ông ở gần.'
Cố hiểu từng câu đi. Mỗi câu đều hàm chứa nghĩa lớn lao. `Là
đứa trẻ, ông chưa bao giờ học cách cư xử; Bình thường, nếu bạn chưa bao giờ học
cách cư xử như trẻ con, bạn sẽ khổ cả đời bạn. Bạn sẽ hối tiếc rằng bạn chưa
bao giờ tới trường, bạn chưa bao giờ học cách xử sự, phép xã giao, cách thức của
xã hội - nghi lễ; bạn sẽ hối tiếc cả đời mình. Nhưng ông ấy nói 'Chẳng có gì để
hối tiếc cả vì khi ta là đứa trẻ, ta chưa bao giờ học cách cư xử. Ta chưa bao
giờ là nô lệ. Ta là tự do từ chính thời thơ ấu của ta. Ta chưa bao giờ cho phép
bất kì ai cho ta kỉ luật. Ta chưa bao giờ là người bắt chước. Ta đã sống cuộc sống
của ta như ta muốn nó. Ta chưa bao giờ cho phép bất kì ai làm sao lãng ta, cho
nên tại sao ta phải hối tiếc? Tại sao?
Không có lí do để hối tiếc. Nếu ta cho phép mọi người - gia
đình ta, bạn bè, xã hội, tu sĩ, chính khách, nhà nước nếu như ta cho phép họ đặt kỉ luật cho ta, thế
thì chắc đã có nhiều điều để khổ rồi. Nhưng ta đã sống cuộc sống tự do từ chính
thời thơ ấu. Ta vẫn còn tự do, ta đã sống trong tự do, cho nên hối tiếc gì có
đó?'
Điều này cực kì có ý nghĩa. Và khi tôi nói điều đó cho bạn,
đây là cảm giác riêng của tôi nữa. Tôi cũng đã sống theo cách tôi muốn sống.
Tôi chưa bao giờ cho phép bất kì ai làm sao lãng tôi. Đúng hay sai, tốt hay xấu,
ngu hay khôn, tôi đã sống theo cách tôi muốn sống. Tôi không có hối tiếc. Không
thể có hối tiếc nào cả. Đây là cách tôi muốn sống, đây là cách tôi đã sống. Và
cuộc sống đã cho phép tôi sống theo cách tôi muốn sống - tôi cám ơn, tôi biết ơn.
Bây giờ tôi biết rằng nếu như tôi đã cho phép những người làm điều tốt, thế thì
tôi chắc đã khổ rồi. Không phải là họ đã thực sự muốn làm hại tôi, họ có thể đã
thực sự muốn giúp tôi - đó không phải là vấn đề chút nào. Họ có thể đã là những
người có mong ước tốt, nhưng một điều là chắc chắn - họ đã làm sao lãng tôi, họ
đã cố ép buộc tôi tới chiều hướng nào đó mà không tới một cách tự phát cho tôi.
Điều đó tôi chưa bao giờ nghe theo. Tôi đã nói với những người
có mong ước tốt cho tôi 'Cám ơn các bác vì rắc rối mà các bác nhận cho tôi,
nhưng tôi vẫn đi tiếp theo cách riêng của tôi. Nếu tôi thất bại sẽ có an ủi - rằng
tôi đã đi theo cách riêng của tôi và thất bại. Nhưng theo các bác, cho dù tôi
thành công, tôi bao giờ cũng hối hận: ai biết cái gì đã là kết quả, cái gì đã từng
là kết quả nếu tôi đã đi theo cách riêng của tôi?'
Tôi đã nghe nói về một bác sĩ lớn, nhà giải phẫu lớn. Ông ấy
đã thành nổi tiếng quốc tế, và khi ông ấy trở nên già và ông ấy về hưu, mọi đệ
tử của ông ấy, từ khắp thế giới, tụ tập lại để mở hội. Ngày họ mở hội, họ thấy
rằng ông ấy trông hơi chút buồn, ông ấy ở đó nhưng không thực sự ở đó. Cho nên
một đệ tử hỏi 'Có việc gì vậy, thưa thầy? Sao thầy trông buồn thế? Sao vậy? Thầy
đã sống cuộc sống thành công thế - không ai có thể cạnh tranh được với thầy, thầy
là duy nhất trong lĩnh vực của thầy; thầy là người trên đỉnh và không ai sẽ có
khả năng thay thế được thầy trong nhiều thế kỉ. Thầy có mọi thứ để hạnh phúc,
và nhìn các đệ tử của thầy, học trò của thầy - họ lan toả khắp thế giới. Sao thầy
buồn?' Và ông ấy nói 'Nhìn mọi thành công này, tôi cảm thấy rất buồn bởi vì tôi
chưa bao giờ muốn là bác sĩ, tôi muốn là vũ công. Bây giờ cả đời tôi đã tiêu rồi,
phí hoài rồi, bởi vì sâu bên dưới tôi vẫn hối hận khi nghe lời người khác. Vâng,
tôi đã thành công, nhưng thành công đó không thoả mãn tôi vì nó xa lạ. Cứ dường
như bạn không đói và ai đó đã buộc bạn ăn - có thể thức ăn rất nuôi dưỡng đó,
nhưng bạn sẽ cảm thấy buồn nôn. Bạn muốn uống nước và ai đó đã buộc bạn uống sữa
- chắc chắn tốt hơn nước, nhưng bạn muốn uống nước. Bạn cảm thấy khát và sữa đã
không thoả mãn bạn, nó đã lừa dối.' Và tôi có thể hiểu người này.
Người đó buồn, buồn của người đó là có nghĩa; người đó buồn
vì bây giờ toàn thể thành công này không là gì ngoài thất bại. Sâu bên dưới người
đó đã thất bại - người đó đã làm cho bản thân mình thất bại; người đó đã không
tin vào trực giác riêng của mình và người đó đã cho phép người khác thao túng
người đó.
Nhìn vào phát biểu của ông già Linh Ly này: `Là đứa trẻ, ông
chưa bao giờ học cách cư xử;' '... vậy có gì mà hối tiếc? Ta đã sống đời ta, ta
đã sống đời ta theo cách riêng của ta.' 'Là người, ông chưa bao giờ cố gắng tạo
ra dấu ấn của ông.' 'Và ta chưa bao giờ cố làm ra dấu vết của ta. Ta không tham
vọng cho nên cái gì có đó để mà hối tiếc?'
Người tham vọng bao giờ cũng hối tiếc. Alexander chết buồn,
trong thất vọng lớn lao, bởi vì tham vọng bởi chính bản chất của nó là không thể
được hoàn thành. Tương truyền, khi Alexander ở Ấn Độ ông ấy đi tới gặp một nhà
chiêm tinh và ông ấy đã hỏi nhà chiêm tinh này về tương lai của ông ấy. Nhà
chiêm tinh nhìn vào tay ông ấy và nói 'Một điều tôi phải nói với ông: ông sẽ có
khả năng được thế giới này, nhưng nhớ cho không có thế giới khác, thế thì ông sẽ
bị mắc kẹt. Thế thì ông sẽ làm gì?' Nhà chiêm tinh này phải đã là một người trí
huệ lớn lao và tương truyền rằng nghe thấy điều này, 'không có thế giới khác',
Alexander trở nên buồn. Bây giờ ngay cả ý tưởng này rằng 'Một khi ông đã chinh
phục thế giới này ông định làm gì? Không có thế giới khác....' Tâm trí tham vọng
sẽ đơn giản cảm thấy bị mắc kẹt - vậy phải làm gì? Và bất kì điều gì bạn đạt tới,
chẳng cái gì được đạt tới bởi vì tham vọng đi rộng mãi ra. Chỉ người không tham
vọng mới có thể hạnh phúc. Người tham vọng nhất định bao giờ cũng bị thất vọng.
Tham vọng tới từ thất vọng, từ tham vọng nhiều thất vọng hơn tới, và nó là cái
vòng luẩn quẩn.
Thầy già này đang nói chân lí lớn lao. Ông ấy nói Là người,
ông chưa bao giờ cố gắng tạo ra dấu ấn của ông. 'Ta không lo nghĩ tới thành
công trong thế giới, để chứng minh rằng ta là ai đó. Ta không quan tâm tới việc
trở thành một phần của lịch sử. Ta không quan tâm tới việc để lại dấu vết của
ta bởi vì điều đó là ngu xuẩn - cho dù ông có chỗ nào đó trong lịch sử, nó có hữu
dụng gì?'
Tôi đã nghe một giai thoại:
Moses đưa dân tộc của ông ấy đi khỏi Ai Cập và thế rồi họ đi
tới biển, và không thể nào đi qua nổi. Chuyện ngụ ngôn này là chuyện ngụ ngôn rất
hiện đại. Ông ấy nhìn vào nhân viên báo chí của mình và ông ấy nói 'Ông nói gì?
Ta có một ý tưởng. Ý kiến của ông là gì? ta có thể yêu cầu đại dương hay Thượng
đế làm đường cho chúng ta và đại dương sẽ rẽ ra.'Và nhân viên báo chí nói 'Nếu
ngài có thể làm được điều đó, thế thì tôi hứa một điều. Trong Cựu Ước ngài sẽ có
hai trang.'
Nhưng cho dù trong Cựu Ước bạn có hai trang, hay hai mươi
trang, hay hai trăm trang, nghĩa của nó là gì? Và lịch sử trở nên lớn hơn, hai
trang đó sẽ trở thành ngày càng nhỏ hơn và nhỏ hơn và một ngày nào đó chỉ là cước
chú. Và thế rồi khi lịch sử sẽ trở nên dài hơn - và nó đang trở nên dài hơn mọi
ngày - cước chú cũng sẽ biến mất ở đâu đó trong phụ lục, và dần dần bạn mất đi.
Khi cuộc sống của bạn qua rồi, dấu vết của cuộc sống của bạn có thể kéo dài bao
lâu? Và tất cả những điều đó phỏng có ích gì?
Vĩ đại là sáng suốt của Thầy già này: 'Là người, ông chưa
bao giờ cố gắng tạo ra dấu ấn của ông.' Vậy cái gì có đó để mà hối tiếc? Nếu bạn
tham vọng bạn sẽ hối tiếc, bởi vì tham vọng chưa bao giờ được hoàn thành. Nếu bạn
không tham vọng bạn hạnh phúc, bởi vì thất vọng sẽ không có lối vào trong bạn. 'Không
vợ không con ở tuổi già của ông,' Và ông ấy nói 'Ta không vợ và không con, cho
nên cái gì có đó để mà khổ?' Cố hiểu nghĩa của ông ấy đi. Ông ấy nói 'Ta tuyệt
đối một mình - không ai quấy rầy sự một mình của ta. Đơn độc của ta là không
xáo trộn. Ta một mình, tự do, tuyệt đối là người chủ của riêng ta. Không ai lôi
ta đi đây đó, không gia đình, không họ hàng - cái gì có đó để mà khổ?'
Nhớ lấy, khi bạn một mình, bạn không một mình đâu; bạn cô
đơn, bạn bỏ lỡ bầu bạn với người khác. Bạn bỏ lỡ bầu bạn với người khác vì bạn
đã không học cách ở trong bầu bạn riêng của bạn. Bạn bỏ lỡ bầu bạn với người
khác vì bạn không biết cách ở với bản thân bạn. Tính cô đơn là tiêu cực: thiếu
vắng người khác. Tính một mình là tích cực: hiện diện của bản thể riêng của bạn.
Tính cô đơn là đơn độc, một người đang cần người khác, tính một mình là riêng một
mình với tất cả. Tính cô đơn là xấu, tính một mình là đẹp. Tính một mình có
chói sáng trong nó.
Phật là một mình, tôi là một mình, Liệt Tử là một mình, ông
già Linh Ly này là một mình. Khi bạn đang ngồi một mình bạn đơn độc, bạn đơn giản
bị thiếu. Sâu bên dưới bạn đang tìm bầu bạn nào đó - đi đâu, làm gì, làm sao được
bận rộn để cho bạn có thể quên bản thân bạn. Bạn còn chưa học được cách ở cùng
bản thân bạn. Bạn còn chưa tạo ra được mối quan hệ với bản thân bạn. Còn chưa
rơi vào tình yêu với bản thân bạn.
Người này nói 'Không vợ không con ở tuổi già của ông...' 'Cái
gì có đó để mà hối tiếc? Ta một mình, giống như đỉnh cao vĩ đại của Himalaya...
một mình. Mọi thứ đều đẹp và im lặng và phúc lạc.' 'Và thời điểm cái chết của
ông ở gần.' Chết, với Đại nhân, chỉ là trở về nhà, cuộc hành trình chấm dứt.
Cũng như bạn đi vào miền đất lạ.... Chẳng hạn, khi sannyasin của tôi trở về họ
đi vào đất lạ. Bất kì khi nào họ có thể quay lại - đây là nhà họ - họ hạnh
phúc. Chết là đi về nhà, đi về nguồn gốc, trở lại cội nguồn, trở về từ nơi chúng
ta tới. Cho nên ông già này nói 'Và thời điểm cái chết của ông ở gần.' 'Vậy cái
gì có đó để mà hối tiếc? Ta đơn giản hạnh phúc, chỉ hạnh phúc. Mọi thứ đơn giản
tốt - nhiều hơn nữa người ta không mong đợi.'
`Là đứa trẻ, ông chưa bao giờ học cách cư xử; Là người, ông
chưa bao giờ cố gắng tạo ra dấu ấn của ông. Không vợ không con ở tuổi già của
ông, Và thời điểm cái chết của ông ở gần.' 'Thầy ơi, thầy có hạnh phúc gì mà thầy
phải ca hát khi mót thóc thế?' Nhưng đệ tử của Khổng Tử không thể hiểu được.
Ông ta lặp lại câu hỏi của mình lần nữa. Ông ta đã bỏ lỡ. Ông ta đã nghe nhưng
ông ta đã không lắng nghe - nó đi trên đầu ông ấy. Lời nói lớn lao thế, đầy
kinh nghiệm thế, cách mạng hoàn toàn thế, nhưng người của Khổng Tử bỏ lỡ.
Học giả bao giờ cũng bỏ lỡ chân lí. Bác học là người không
có khả năng lắng nghe nhất, tâm trí ông ấy đầy những ý tưởng riêng của ông ấy.
Khi những lời mênh mông này được thốt ra, Tử Cống phải nghĩ cả nghìn lẻ một ý
nghĩ trong tâm trí ông ấy; phải chuẩn bị nhiều câu hỏi hơn - cái gì để hỏi tiếp.
Ông ấy dường như lắng nghe, nhưng ông ấy không lắng nghe.
''Thầy ơi, thầy có hạnh phúc gì mà thầy phải ca hát khi mót
thóc thế?' Lần nữa câu hỏi là có nghĩa: 'Thầy có hạnh phúc gì...?' Nhớ lấy, nếu
có nguyên nhân cho hạnh phúc, thế thì nguyên nhân nhất định là trong quá khứ.
Nguyên nhân bao giờ cũng trong quá khứ. Nếu bạn hạnh phúc, câu hỏi là 'Cái gì
đã làm cho bạn hạnh phúc?' và cái đã làm cho bạn hạnh phúc đã đi vào trong quá
khứ. Cho nên hạnh phúc có nguyên nhân là hướng quá khứ. Hướng quá khứ nghĩa là cái
không còn nữa; nó là hư cấu, nó là tưởng tượng, nó là ảo tưởng.
Hạnh phúc thực là hướng hiện tại: có chưa bao giờ hướng quá
khứ. Hạnh phúc thực nảy sinh ở đây-bây giờ, chính khoảnh khắc này, không có thời
gian cho nó để có nguyên nhân. Nó là nguyên nhân và hậu quả cùng nhau. Cố hiểu
nó. Nếu bạn nói 'Tôi hạnh phúc bởi vì tôi được sinh với người cha giàu có' -
bây giờ điều này là bẩy mươi năm, một trăm năm trước. Hạnh phúc của bạn về cái
gì đó đã trôi qua một trăm năm trước chỉ là điều tưởng tượng trong kí ức của bạn.
Bạn nói 'Tôi hạnh phúc vì mười năm trước tôi đã được trao giải thưởng Nobel.'
Mười năm trước bạn đã được trao giải thưởng Nobel sao? - hạnh phúc của bạn là rất
bụi bặm. Mười năm... nhiều bụi thế đã tích luỹ; nó không tươi tắn, nó cũ rích.
Bạn là người rất đáng thương: bạn ăn thức ăn đã được chuẩn bị từ mười năm trước.
Hạnh phúc thực là ở đây bây giờ. Nó không liên quan tới quá
khứ, nó không liên quan tới tương lai. Thỉnh thoảng bạn trở nên hạnh phúc về
tương lai: bạn đang hi vọng rằng bạn sẽ được xổ số, hay bạn đang hi vọng rằng
điều này sẽ xảy ra ngày mai - bạn gái của bạn mai sẽ tới và bạn được kích động.
Để làm gì? - vì ngày mai, cái còn chưa tới sao? Bạn điên. Hoặc hạnh phúc của bạn
là hướng quá khứ hoặc hướng tương lai; và cả hai là giả bởi vì quá khứ không
còn, tương lai không có. Quá khứ đã đi ra khỏi sự tồn tại, tương lai còn chưa
đi vào. Hạnh phúc thực, đích thực là ở đây bây giờ. Nó nảy sinh, khoảnh khắc
này, từ không đâu cả.
Không có hai khoảng khắc cùng nhau - đó là lí do tại sao nó
là vô nguyên nhân - bởi vì để nhân quả tồn tại, ít nhất hai khoảnh khắc sẽ được
cần tới: một cho nguyên nhân của nó, và một cho hậu quả của nó. Nhưng duy nhất
khoảnh khắc này - toàn bộ, một mình, riêng là sẵn có. Lần nữa người hỏi hỏi câu
hỏi sai: '... thầy có hạnh phúc gì mà thầy phải ca hát khi mót thóc thế?' 'Lí
do cho hạnh phúc của ta là mọi người cùng chia sẻ. Ông già lại nói cái gì đó
hay: ''Lí do cho hạnh phúc của ta là mọi người cùng chia sẻ.' 'Nó không liên
quan gì tới ta cả; mọi người đều có nó, nhưng họ không nhận ra nó. Không chỉ việc
họ không nhận ra nó, họ tìm kiếm cái đã sẵn có rồi. Không chỉ điều đó họ tìm
nó, '...thay vì thế, họ lo lắng về họ.'
Cùng lí do, chẳng hạn bốn lí do này.... 'Lí do cho hạnh phúc
của ta là mọi người cùng chia sẻ. Linh Ly vừa nói vừa mỉm cười 'nhưng thay vì
thế, họ lo lắng về họ. Bạn lo nghĩ về thời thơ ấu của bạn... rằng bạn đã không
được giáo dục tốt - đã không được cho đi học ở Harvard hay Oxford hay
Cambridge, rằng bố mẹ bạn đã nghèo, rằng bạn không được nuôi dưỡng lớn lên tốt
như bạn đã muốn, rằng bạn đã không được đào tạo, rằng bạn đã bỏ lỡ nhiều cơ hội.
Bạn tiếc về nó, bạn lo nghĩ về nó. Điều này đáng là nguyên nhân để hạnh phúc -
mọi thứ nên là nguyên nhân để hạnh phúc, chỉ thế thì người ta mới hạnh phúc. Bằng
không người nghèo cứ kêu và khóc bởi vì người đó nghèo, và người giầu cũng cứ
kêu và khóc bởi vì người đó giầu. Tôi đã biết người giầu - họ nói bố mẹ họ đã phá
huỷ họ vì họ được phép có nhiều tiện nghi trong thời thơ ấu tới mức họ không
bao giờ học cái gì. Bạn đã thấy, bạn phải đã quan sát, rằng rất hiếm khi tìm ra
con nhà giầu thông minh, hiếm lắm. Họ toàn ngu, họ nhất định như vậy, bởi vì phỏng
có ích gì mà trở nên thông minh? Tại sao bận tâm? Họ đã có mọi thứ họ cần; mọi
điều họ có thể có qua thông minh đều đã có đó rồi, cho nên tại sao thông minh?
Trong các đại học họ thất bại, ở mọi nơi họ thất bại; họ không
bận tâm tí chút. Khi tôi dạy đại học, tôi đã có một sinh viên thất bại trong
năm năm ở lớp BA của anh ta. Tôi hỏi anh ta - năm năm tôi đã chờ đợi - năm thứ
sáu, khi kì thi lại tới, tôi nói 'Kế hoạch của em là gì? Em có định thất bại nữa
không?' Anh ta nói 'Ai bận tâm? Bố em giầu. Chỉ người nghèo mới bận tâm.' Nếu bạn
được sinh ra trong gia đình giầu, thế nữa bạn cũng không hạnh phúc. Nếu bạn được
sinh trong gia đình nghèo, tất nhiên, làm sao bạn có thể hạnh phúc được? Nếu bạn
mạnh khoẻ bạn không hạnh phúc, bởi vì nếu bạn mạnh khoẻ bạn không bao giờ nghĩ
về mạnh khoẻ như cái gì đó là hạnh phúc. Người mạnh khoẻ không bao giờ nghĩ về
việc mạnh khoẻ. Nếu bạn không mạnh khoẻ, bạn bất hạnh. Nhìn vào logic của tâm
trí bạn. Bất kì cái gì bạn đều có thể tìm ra để khổ, bạn đơn giản nhảy vào, và
bất kì cái gì bạn có thể hạnh phúc bạn đơn giản quên mất, bạn không để ý gì tới
nó. 'nhưng thay vì thế, họ lo lắng về họ. Chính là vì ta đã không nhận đau đớn
khi học cư xử khi ta còn trẻ...'
Ông già này phải nhắc lại. Ông ấy đã nói điều đó, nhưng thấy
rằng người này đã không lắng nghe, đã không hiểu nó, ông ấy phải nhắc lại. 'Chính
là vì ta đã không nhận đau đớn khi học cư xử khi ta còn trẻ, và không bao giờ cố
gắng tạo ra dấu hiệu của ta khi ta trưởng thành mà ta đã có thể sống lâu thế.
Chính bởi vì ta không có vợ và con trong tuổi già và thời gian của cái chết của
ta ở gần mà ta có thể hạnh phúc thế.'
Điều này bạn sẽ thấy trong mọi kinh sách phương Đông lặp đi
lặp lại: sự lặp lại lớn lao. Lí do là ở chỗ chân lí là như vậy mà Thầy phải lặp
lại chúng, bởi vì được nói một lần, họ không hiểu. Phật thường lặp lại mọi thứ
ba lần - ngay cả những điều nhỏ bé. Ông ấy sẽ hỏi đệ tử 'Ông có nghe ta không?
Ông có nghe ta không? Ông có nghe ta không?' Ba lần! Từ từ bi lớn lao. Khi kinh
sách Phật giáo được dịch sang tiếng phương Tây mọi người rất đỗi phân vân: Tại
sao? Phật nói với những người rất ngu thế sao? Sao ông ấy lặp lại nhiều thế?
Không, họ đều là những người thông minh như bạn, như người ở bất kì đâu đã từng
vậy. Vấn đề không phải là thông minh, vấn đề là nhận biết.
Họ đã không nhận biết, họ đã không nhận biết như bạn vậy. Tôi
phải lặp lại liên tục. Các biên tập của tôi đâm ra phân vân. Bạn có thể hỏi
Anurag, bạn có thể hỏi Pratima, họ đâm phân vân tại sao tôi lặp lại. Họ muốn phân
loại nó ra. Tôi không cho phép họ, tôi nói 'Cứ để nó như nó vậy.' Bởi vì những
chân lí này là như vậy, một lần, bạn có thể bỏ lỡ, hai lần, tôi hi vọng rằng bạn
có thể chú ý chút ít, ba lần.... Tôi phải cứ nhắc lại điều đó như gõ búa vào đầu
bạn. Bạn có thể cứ bỏ lỡ mãi được bao lâu? Nó là cuộc chiến giữa tôi và bạn.
Người già nhắc lại, nhưng lần nữa ông ta đã không hiểu. Tử Cống
nói 'Chính con người muốn sống lâu, và ghét chết - sao ông lại hạnh phúc để chết?'
Những điều căn bản bị bỏ lỡ. Duy nhất một điều đã được lấy ra từ bốn điều - điều
cuối cùng. Nhưng điều cuối cùng có thể được hiểu chỉ nếu ba điều trước nó đã được
hiểu, bằng không thì không. Nếu ba điều đầu đã được hiểu....
`Là đứa trẻ, ông chưa bao giờ học cách cư xử; Là người, ông
chưa bao giờ cố gắng tạo ra dấu ấn của ông. Không vợ không con ở tuổi già của
ông, Và thời điểm cái chết của ông ở gần.' Nhìn xem: điều thứ nhất thuộc về thời
thơ ấu, điều thứ hai thuộc về thời thanh niên, điều thứ ba thuộc về tuổi già của
bạn, thế rồi tới cái chết. Nó là hệ quả rất tự nhiên, nó là tuyệt đối logic - bạn
phải bắt đầu từ chính lúc bắt đầu.
Nhưng ông ấy đã quên mất ba điều. Ông ấy đã không liệt kê ra
ba điều này, ông ấy nhảy vào điều thứ tư. Ông ấy phải đã sợ, một người sợ chết.
Điều đó bắt giữ chú ý của ông ấy. Nhưng chừng nào ba điều này chưa được hiểu,
điều thứ tư sẽ bị bỏ lỡ. 'Chính con người muốn sống lâu, và ghét chết - sao ông
lại hạnh phúc để chết?' Điều đó không có tính con người - có thể đó là tính người,
nhưng không tính con người. Bạn phải hiểu hai từ này. Trong từ điển chúng là đồng
nghĩa, nhưng chúng không đồng nghĩa trong thực tại. Cũng như tôi đã nói với bạn
là 'tính cô đơn' và 'tính một mình' là đồng nghĩa trong từ điển nhưng không
trong thực tại, vậy 'người' và 'con người' là hai điều khác nhau. 'Người' là
khái niệm tĩnh như 'chó', như 'trâu', như 'khỉ'. 'Người' là khái niệm tĩnh, như
cái tên của loài nào đó, một trong các loài. Loài này là khỉ, loài khác là
trâu, loài này là người. Bạn có quan sát không? Với người chúng ta có hai từ,
'con người' và 'người'. Với chó bạn chỉ có một từ: 'chó', với trâu bạn chỉ có một
từ: 'trâu', với khỉ: 'khỉ'. Tại sao? Tại sao có 'con người' này? Nó có ý nghĩa:
'người' đơn giản nghĩa là loài sinh học; 'con người' không có liên quan tới
sinh học. 'Con người' là khái niệm phát triển, khái niệm mở; 'người' là khái niệm
đóng, 'người' nghĩa là bạn là sinh linh. 'Con người' nghĩa là bạn là quá trình,
bạn đang đi, bạn là cuộc hành trình, bạn là cuộc hành hương, bạn đang đi tới, bạn
là 'đi tới cõi bên kia'.
Friedrich Nietzsche đã nói: Điều vĩ đại nhất mà tôi yêu trong
người là ở chỗ người đó không phải là cái đích mà là cái cầu. Điều quan trọng
nhất mà tôi yêu là ở chỗ người đó là quá trình tiếp diễn không phải là chấm dứt
mà là phương tiện, cuộc hành trình.
'Con người' nghĩa là cây cầu - cây cầu giữa người và Thượng
đế. 'Người' nghĩa là chỉ là người, không có việc mở ra trong nó. Từ 'con người'
là mở, nó đi ra ngoài người. 'Người' là chiếc cầu, 'con người' là cuộc hành
trình, cuộc hành hương - người ta định đi đâu đó, người ta tìm kiếm cái gì đó,
người ta cố gắng trở thành cái gì đó. 'Người' là tĩnh, 'con người' là năng động.
'Người' là giống như đồ vật. 'Con người' là quá trình, tựa sông, tuôn chảy, đạt
tới cõi bên kia, dò dẫm trong bóng tối. 'Người' đang ngồi, không đi đâu, què quặt,
chết, như nấm mồ. 'Con người' là dòng sông, không biết đại dương ở đâu nhưng cố
gắng vất vả để đạt tới. Nhớ điều này, 'người' sợ chết. 'Con người' thì sao? Không,
chính con người không sợ chết. Một người đang trên cuộc hành hương - người đó sẵn
sàng chết nếu điều đó được cần để đi tiếp; người đó sẵn sàng đi sang cõi bên
kia, người đó sẵn dàng dùng cánh cửa của cái chết để đi qua cõi bên kia.
Người này nói 'Chính con người muốn sống lâu, ...' Không,
chính con người không muốn cuộc sống dài lâu. Vâng, nó là liên quan khi khái niệm
về 'người' có liên quan. Chó sợ chết, trâu sợ chết, khỉ sợ chết - người cũng vậy.
Nhưng là con người, người ta xúc động thế với khả năng này - người ta muốn biết
chết là gì. Vì người ta đã sống cuộc sống của mình, người ta bắt đầu cảm thấy
'Bây giờ mình đã biết sống là gì, mình muốn biết chết là gì.
Sống đã được biết, nó là đẹp. Bây giờ chúng ta hãy xem chết
là gì, để nó là cuộc phiêu lưu khác.' Socrates là con người khi ông ấy sắp chết,
khi ông ấy sắp được cho thuốc độc. Đệ tử của ông ấy kêu khóc còn ông ấy nói
'Thôi đi! Các ông có thể làm điều đó khi ta đi rồi, nhưng đừng làm bây giờ. Điều
này là phí phạm, cực kì phí phạm. Điều vĩ đại thế đang xảy ra, ta sắp chết và
các ông khóc!' Và họ nói 'Thưa thầy, thầy sắp chết, thầy không sợ sao?'
Ông ấy nói 'Về cái gì? Ta đã sống cuộc đời của ta, ta yêu
nó, nó là đẹp. Ta đã biết nó, nhưng không cần cứ lặp lại nó mãi mãi. Bây giờ
cái gì đó mới - chết là mới thế. Ta vui thích, ta xúc động, cuộc phiêu lưu lớn
thế' Socrates nói. 'Ta muốn thấy chết là gì bây giờ.' Một trong các đệ tử,
Crito, nói 'Nhưng thưa thầy, mọingười đều sợ chết.' Socrates nói 'Ta không biết.
Ta không hiểu tại sao mọi người sợ chết. Nếu người vô thần là đúng rằng người
ta chết hoàn toàn chẳng cái gì còn lại, thế thì chẳng có gì mà sợ cả - Socrates
sẽ không có đó cho nên tại sao lại sợ? Ta đã không có đó trước khi ta được sinh
ra và ta không cảm thấy sợ gì về điều đó cả.'
Các ông có bao giờ cảm thấy sợ gì rằng các ông đã không có
trước khi các ông được sinh ra không? Nỗi sợ nào bắt giữ các ông? Chẳng có gì cả.
Các ông sẽ nói 'Vô nghĩa, bởi vì thế thì mình không có, cho nên phỏng có ích gì
mà sợ?' Và Socrates nói 'Ta sẽ lại biến mất nếu người vô thần là đúng, cho nên
sợ là gì? Sẽ không có ai để sợ cả. Hay cóthể người hữu thần là đúng và ta sẽ có
đó. Nếu ta sẽ có đó, thế thì tại sao sợ?'
Bây giờ đây là người đã sống cuộc sống động, cuộc sống của
trưởng thành, tiến hoá. Nếu bạn đã sống cuộc sống của tiến hoá, thế thì chết tới
như cuộc cách mạng, một thay đổi đột nhiên cho thực tại nào đó không biết. Tại
sao người ta phải sợ? Không, 'con người' - đó không phải là con người. Nhưng tất
cả mọi người không phải là sinh linh con người, nhớ lấy. Rất hãn hữu... ở đâu
đó một Socrates, một Liệt Tử, một Phật - đây là những sinh linh con người.
Thông thường có đàn ông và đàn bà, nhưng không có con người.
Trở thành con người nghĩa là trở thành một quá trình, trở thành việc truy hỏi,
trở thàn đam mê về cái không thể có... người tìm kiếm, người tìm kiếm chân lí. Ông
già này nói ''Chết là trở về nơi chúng ta đã khởi hành khi chúng ta được sinh
ra. Cho nên làm sao ta biết rằng khi ta chết ở đây ta sẽ không được sinh ra ở
đâu đó khác?'
Cùng thái độ của Socrates: 'Cho nên làm sao ta biết rằng khi
ta chết ở đây ta sẽ không được sinh ra ở đâu đó khác? Làm sao ta biết rằng sống
và chết không phải là tốt lẫn cho nhau? Làm sao ta biết rằng nài xin sống một
cách lo âu không phải là ảo tưởng? Làm sao ta biết rằng cái chết hiện tại sẽ
không tốt hơn kiếp sống quá khứ của ta?' 'Làm sao ta biết...?' Nhìn nhấn mạnh
này. Ông ấy không nói 'tôi biết', ông không tuyên bố tri thức nào.
Không người trí huệ nào đã bao giờ tuyên bố tri thức nào. Đó
là lí do tại sao Socrates nói 'Có thể người vô thần là đúng, có thể người hữu
thần là đúng, nhưng điều đó không thành vấn đề. Để bất kì người nào trong họ là
đúng đi, tôi vẫn còn không bị xáo trộn.' Trí huệ, trí huệ thực bao giờ cũng bất
khả tri. Nhớ từ này 'bất khả tri'. Người tìm kiếm thực là bất khả tri. Người đó
chưa bao giờ tuyên bố 'Tôi biết', và người đó chưa bao giờ nói 'Đây là chân
lí'. Người đó rất mở, người đó không đóng. Người đó không có giáo điều, người
đó không có tín điều, người đó đơn giản ý thức và nhận biết, và sẵn sàng đối diện
với bất kì thực tại nào dù là bất kì cái gì. Dù thực tại đi tới được hiển lộ là
bất kì cái gì, người đó sẵn sàng đi vào trong nó. Người đó tin cậy cuộc sống.
Những người không tin cậy vào cuộc sống họ tạo ra niềm tin, giáo điều, lí thuyết,
để bảo vệ bản thân họ. Người trí huệ thực là mong manh; người đó không bảo vệ.
Người đó mở cho mưa, cho gió, cho mặt trời, cho mặt trăng, cho cuộc sống, cho
cái chết, cho bóng tối, cho ánh sáng - người đó là mở cho tất cả. Người đó
không có bảo vệ; tính mong manh của người đó là toàn bộ.
Nhớ thuyết bất khả tri của người này. Người già một trăm tuổi
bắt đầu cảm thấy sợ chết. Người ta bắt đầu nghĩ 'Linh hồn phải bất tử.' Người
ta bắt đầu tưởng tượng 'Bây giờ mình sẽ được đón nhận ở thiên đường với kèn trống
rộn rã. Thượng đế phải chờ đợi, và một lâu đài đá cẩm thạch lớn phải sẵn sàng
cho mình.' Người ta bắt đầu tưởng tượng mọi thứ, người ta bắt đầu mơ. Nhưng người
này nói 'Làm sao tôi biết được?' Người đó không tuyên bố tri thức nào. Người đó
đơn giản nói 'Tôi không biết cách này hay cách nọ. Tôi tuyệt đối dốt nát, tôi
chưa nếm trải chết, cho nên làm sao tôi biết? Để tôi biết đã! Tại sao tôi phải
sợ từ chính ban đầu? Nó có thể hoá ra là tốt hơn sống, ai biết?' Để nó xảy ra
đi. Nhớ lấy, hiểu biết thực bao giờ cũng chờ đợi cho khoảnh khắc xảy ra. Nó
chưa bao giờ quyết định trước, nó chưa bao giờ lập kế hoạch trước - nó là tự phát.
Tử Cống lắng nghe, nhưng đã không hiểu nghĩa của ông ấy. Ông
ta quay về và kể cho Khổng Tử. Ông ta không thể hiểu được bởi vì ông ta là kẻ
sĩ lớn, đại đệ tử của Khổng Tử. Ông ta đã nghiên cứu tri thức, ông ta không thể
hiểu nổi. Ông ta báo lại cho Khổng Tử, thầy của ông ta, và Khổng Tử nói gì?
Nghe đây: `Ta biết ông ấy đáng nói chuyện' Con người của tri thức bao giờ cũng
cứ tuyên bố. Bây giờ ông ấy nói `Ta biết ông ấy đáng nói chuyện ... và ông ấy
là vậy' Ông ấy đang cố nói với đệ tử của ông ấy 'Ta được chứng minh là đúng,
suy diễn của ta là hợp thức: người này đáng nói chuyện.' Nhưng ông ấy không thể
chấp nhận được điều người này đã nói; điều đó cũng ở bên ngoài cả ông ấy.
Nó ở bên ngoài đệ tử của ông ấy, và nó cũng ở bên ngoài ông ấy.
Ông ấy nói 'nhưng ông ấy là người đã tìm thấy nó, vậy mà không tìm thấy tất cả
về nó.' ... ông ấy là người đã tìm thấy nó, vậy mà không tìm thấy tất cả về
nó.' Bây giờ điều này là ngớ ngẩn. Chân lí không thể bị phân chia - hoặc bạn đã
tìm thấy nó, cái toàn thể về nó, hoặc bạn không có nó chút nào. Không thể nào có
chút ít chân lí được. Nó không thể bị phân mảnh, nó không thể bị cắt thành từng
lát. Chân lí là toàn bộ, chân lí là toàn thể - hoặc bạn có nó hoặc bạn không có
nó. Khôngthể có chút ít chân lí được. Không có khả năng có chút ít Thượng đế:
điều đó là không thể được, chính việc này là ngớ ngẩn. Nhưng khi bạn đi tới
chuyên gia ông ấy phải nói cái gì đó để chứng minh rằng ông ấy biết.
Khổng Tử nói rằng người này đã tìm thấy nó. Ông ấy nói điều
đó bởi vì ông ấy đã phái đệ tử tới, bây giờ ông ấy phải chứng minh điều đó - rằng
ông ấy đúng. Nhưng ông ấy không thể nhân nhượng rằng ông này biết, cho nên ông ấy
nói 'Ông ấy biết chút ít, nhưng không tất cả về nó.' Điều này xảy ra. Người của tri thức cứ bảo vệ
bản ngã của người đó. Phát biểu này là ngớ ngẩn như phát biểu có thể vậy. Bạn hỏi
vị Phật, bạn hỏi Lão Tử, bạn hỏi Jesus, bạn hỏi Krishna và họ tất cả đều nói:
Chân lí không thể bị phân chia. Nó không phải là cái gì bạn có thể chia ra được.
Nó là kinh nghiệm - khi nó xảy ra, nó xảy ra. Khi nó xảy ra,
nó xảy ra một cách toàn bộ. Bạn biến mất trong kinh nghiệm đó. Nhưng Khổng Tử
nói 'Ông ấy đã tìm thấy, nhưng không phải tất cả nó.' Chính phát biểu này chỉ
ra dốt nát, nhưng chuyên gia bao giờ cũng phải bảo vệ tri thức chuyên gia của
người đó.
Tôi đã nghe một giai thoại hay. Nghe nó cho cẩn thận. Cậu bé
kết giao với quá nhiều phụ nữ cho nên ông già quyết định gửi nó tới các nhà tâm
thần hàng đầu. Đó là việc phân tích kéo dài và hoá đơn rất cao, nhưng ông ấy cảm
thấy xứng đáng nếu việc chữa chạy đạt kết quả. Cuối cùng, khi đứa con trở về,
ông ấy hỏi để biết cái gì đã được tính trong trị liệu. 'Con có nói cho các bác
sĩ cách chúng ta bắt được con với cô hầu khi con được mười tuổi không?' Đứa con
gật đầu. 'Con có bảo họ chúng ta không thể giữ đầu bếp trong mười năm qua vì
con không? Hai mươi ba đầu bếp chúng ta đã cho qua!' Đứa con gật đầu. 'Con có bảo
họ về năm người mẫu ở nhà, ba mươi ba cô gái ở đại học và điều đã xảy ra với vợ
ông quản lí không?' Đứa con lại gật đầu. 'Vậy nói cho bố, họ đã nói gì?' 'Họ
nói con có xu hướng đồng dục' đứa con nói. 'Họ nói con có xu hướng đồng dục!'
Các chuyên gia phải nói cái gì đó, họ phải chỉ ra tri thức chuyên gia của họ. Bây
giờ nếu người này có xu hướng đồng dục thế thì không ai có thể có xu hướng dị dục
được - không thể được! Nhưng các chuyên gia phải tìm ra cái gì đó, họ phải nói
cái gì đó, dù hoàn toàn ngớ ngẩn đến đâu.
Khổng Tử nói 'Người này đã tìm thấy nó, vậy mà không tìm thấy
tất cả về nó.' Đó là tất cả bình luận ông ấy đưa ra, và ông già này đã nói triết
lí sâu lắng thế trong bốn câu này:
`Là đứa trẻ, ông chưa bao giờ học cách cư xử; Là người, ông
chưa bao giờ cố gắng tạo ra dấu ấn của ông. Không vợ không con ở tuổi già của
ông, Và thời điểm cái chết của ông ở gần.' '... Cái gì có đó để mà hối tiếc?'
Và, 'Lí do cho hạnh phúc của ta là mọi người cùng chia sẻ. Bởi vì hạnh phúc
không phải là cái gì đó mà bạn phải đạt tới, nó đã có đó rồi, nó là có sẵn, nó
là chính bản tính của bạn. Mọi người có thể hạnh phúc chỉ nếu họ dừng tìm nguyên
nhân để hạnh phúc, người ta chỉ phải hạnh phúc chẳng bởi lí do này cả.
Và ông ấy đã cho toàn thể thông điệp của Đạo trong bốn câu
này. Cứ hỗn loạn đi. Cứ đúng đích thực với bản thể riêng của bạn. Lắng nghe chỉ
theo bản thân bạn. Đừng cho phép bất kì ai đặt kỉ luật cho bạn. Đừng cho phép bất
kì ai làm bạn thành nô lệ. Đừng cho phép bất kì ai ước định bạn. Tu sĩ và chính
khách - tránh họ ra, tránh những người làm điều tốt. Nhớ rằng bạn chỉ phải là bản
thân mình và không ai khác. Hỗn loạn này, tự do hỗn loạn này.... Và đừng tham vọng,
bởi vì đó chỉ là tầm thường. Cứ sống cuộc sống của bạn một cách toàn thể nhất
có thể được.
Đừng cố gắng làm ra dấu vết trên các trang lịch sử - điều đó
là vô nghĩa. Và đừng bao giờ bận tâm với người khác. Dần dần bằng việc học cách
ở một mình, tận hưởng sự một mình đó chính là điều thiền tất cả là gì. Và chung
cuộc, nhớ rằng chết không phải là chết, nó là việc bắt đầu mới. Và, ai biết? có
thể nó dẫn bạn vào cuộc sống cao hơn. Nếu vũ trụ này có nhịp điệu trong nó, nó phải
như vậy chứ. Nó phải dẫn bạn vào cuộc sống cao hơn.
Bạn đã học nhiều thế, bạn đã trở nên xứng đáng hơn, một cách
tự nhiên chết phải dẫn bạn tới bình diện cao hơn của bản thể. Điều đó dường như
là đơn giản: người đã sống, đã yêu, đã kinh nghiệm, đã thiền, người đã trải qua
nhiều điều thế trong cuộc sống, đã trở thành đáng giá hơn - người đó phải được
cho cuộc sống cao hơn. Nếu sự tồn tại này có bất kì từ bi nào, thế thì chết sẽ
là viên mãn cao hơn, đỉnh cao hơn.
Chờ đợi với xúc động, với cuộc phiêu lưu lớn lao. Chờ đợi với
vui vẻ vô cùng, vui sướng và lễ hội. Hạnh phúc là rất tự nhiên: người ta không
nên kiếm nó, người ta đơn giản nên tận hưởng nó. Thông điệp vĩ đại thế, và Khổng
Tử đã nói gì? Rằng người này đã tìm thấy nó, vậy mà không tìm thấy tất cả về nó
- cứ dường như Khổng Tử đã tìm thấy tất cả về nó.
Những chuyện ngụ ngôn này là rất tinh tế. Chúng là việc làm
tan vỡ lớn lao các ý tưởng của Khổng Tử, nhưng cách thức của chúng là rất tao
nhã. Nếu bạn không đi sâu bạn có thể không bao giờ hiểu. Thiền về những chuyện
ngụ ngôn này đi; chúng có thông điệp lớn - giải mã chúng. Cuộc sống của bạn sẽ
cực kì giầu có qua chúng.
Xem tiếp – Quay về Mục lục