Osho - Đạo: Đường vô lộ (Tập 1)
Chương 11: Thực tại... Điều đó có tác dụng
Triệu Hoằng Tử đi săn trong vùng núi trung tâm với một toán
một trăm nghìn người. Ông ấy đốt rừng bằng đốt cỏ cao, và quạt cho ngọn lửa
cháy hàng trăm dặm. Một người bước ra từ trong vách đá, lên xuống với khói và
tro. Đám đông tưởng người đó là quỉ. Khi lửa qua đi người đó bước ra qua lửa một
cách ngẫu nhiên như chưa từng xảy ra cháy.
Triệu Hoằng Tử kinh ngạc và giữ người này lại. Ông ấy nhìn
chăm chú vào người này một cách thong thả. Trong hình dáng, trong mầu sắc, và bẩy
khiếu trên đầu người đó, người đó là con người, trong việc thở, trong tiếng
nói, người đó là con người. Ông ấy hỏi người đó bằng cách nào người đó đã sống
trong đá và đi qua lửa. 'Những thứ này mà ông gọi là đá và lửa là gì vậy?' người
đó nói. 'Thứ ông vừa bước ra từ đó là đá; thứ ông vừa bước qua là lửa.' 'Tôi
không biết,' người đó nói. Công tử Văn của vùng Vi nghe nói điều đó và hỏi Tử Hạ,
một kẻ sĩ rất nổi tiếng, 'Đó là loại người gì vậy?' 'Theo điều tôi đã nghe thầy
tôi nói, người trong hài hoà là tuyệt đối là một như các vật khác và không cái gì
làm bị thương hay cản trở người đó. Đi qua kim loại và đá, và bước đi qua nước
và lửa tất cả đều có thể.' 'Tại sao đích thân ông không làm điều đó?' Công tử Văn
hỏi. 'Tôi còn chưa có khả năng cắt mở tim tôi và ném ra tri thức trong nó. Tuy
nhiên, tôi có thể nói với ông mọi điều ông muốn biết về nó.' 'Tại sao thầy ông
không làm điều đó?' Công tử Văn hỏi. 'Thầy tôi là người, mặc dầu có khả năng
làm điều đó, lại không có khả năng làm điều đó.' Công tử Văn vui thích với câu
trả lời này.
Có phân biệt rất có ý nghĩa được thực hiện trong chính lúc
ban đầu: phân biệt giữa tri thức và việc biết. Tri thức chỉ dường như là biết,
nó không biết. Việc biết có thể không dường như biết, nhưng nó biết. Tri thức
là vay mượn, việc biết là của riêng người ta. Tri thức là lời nói, việc biết là
qua việc sống. Tri thức là thông tin được thu thập từ đây đó. Việc biết có tính
tồn tại: bạn đã sống nó, nó đã tới qua chính sự tồn tại của bạn; nó là kinh
nghiệm. Khi việc biết xảy ra, con người được tự do, người đó được giải thoát.
Qua tri thức, con người trở nên ngày càng là tù nhân hơn. Tri thức mù quáng; việc
biết giải thoát.
Và điều ngược đời là ở chỗ con người của tri thức rêu rao rằng
người đó biết còn con người của việc biết thậm chí không biết rằng mình biết.
Con người của việc biết là hồn nhiên. Có một chuyên luận huyền môn rất nổi tiếng
ở phương Tây - chuyên luận duy nhất ở phương Tây. Không ai biết ai đã viết nó,
không ai biết nó tới từ đâu, nhưng nó phải đã tới từ kinh nghiệm vô cùng. Tên của
chuyên luận đó là Mây của việc không biết. Nó là từ một người biết, nhưng người
đó gọi nó là Mây của việc không biết. Người đó nói 'Khi tôi đi tới biết ra, tôi
quên mọi tri thức; mọi tri thức biến mất.' Không có nhu cầu về tri thức khi bạn
biết. Khi bạn không biết, bạn níu bám lấy tri thức bởi vì chỉ qua tri thức đó
mà bạn mới có thể giả vờ biết, khi bạn biết, bạn có thể quên tri thức. Khi bạn
không biết, làm sao bạn có thể đảm đương được việc quên nó?
Cho nên chỉ những người biết vĩ đại nhất mới có khả năng
quên tri thức. Đó là đỉnh, và điều đó phải được nhớ. Sống ở đây với tôi, hiện hữu
ở đây cùng tôi, đừng trở thành con người của tri thức bằng không bạn sẽ bỏ lỡ
tôi. Trở thành con người của việc biết, trở thành mây của việc không biết - điều
là cùng một thứ nói theo các từ khác thôi. Việc biết gần giống như việc không
biết bởi vì trong việc biết không có người biết, bản ngã không tồn tại. Trong
tri thức có phân chia: phân chia của cái được biết và người biết, phân chia của
chủ thể và đối thể. Trong việc biết không có phân chia. Việc biết là không có
tính phân chia, nó có tính thống nhất; nó thống nhất.
Khoa học là một loại tri thức, tôn giáo là một loại củaviệc
biết hay việc không biết, do đó con đường của chúng không bao giờ giao nhau ở
đâu cả và chúng sẽ không bao giờ giao nhau. Nơi khoa học chấm dứt, tôn giáo bắt
đầu. Nơi tinh ranh chấm dứt, hồn nhiên bắt đầu. Nơi người biết biến mất, việc
biết đi vào.
Trong câu chuyện kinh thánh về việc đuổi Adam có cái gì đó cần
được hiểu trong ngữ cảnh này. Câu chuyện này là hay tới mức tôi cứ hay kể nó lặp
đi lặp lại mãi, với các nghĩa khác nhau, với các diễn giải khác nhau. Thượng đế
nói với Adam 'Con có thể tận hưởng mọi quả của vườn này nhưng có hai cây - một
cây tên là Cây Cuộc sống, cây kia tên là Cây Tri thức - đừng bao giờ ăn quả ở
Cây Tri thức đấy.' Ngài nhắc tới hai cây: Cây Cuộc sống và Cây Tri thức. Ngài
không nói gì về Cây Cuộc sống cả, ngài đơn giản nói 'Đừng ăn từ Cây Tri thức.'
Nhưng Adam quá tò mò, do đó rắn có thể thuyết phục anh ta - bằng không thì rắng
đã không có tính thuyết phục, đã không thành công được. Sâu bên dưới, Adam phải
đã tò mò về nó, như mọi đứa trẻ đều vậy - và Adam là đứa trẻ đầu tiên và Thượng
đế là người bố đầu tiên. Anh ta đã bị thuyết phục để ăn từ Cây Tri thức. Anh ta
đã ăn, và anh ta trở thành người biết. Ngay lập tức anh ta cảm thấy xấu hổ,
ngay lập tức anh ta cảm thấy bị trần truồng. Mãi cho tới lúc đó anh ta còn hồn nhiên;
hồn nhiên là nguyên thuỷ, tuyệt đối, vô điều kiện. Anh ta đã không nhận biết rằng
anh ta trần truồng. Thực ra anh ta đã nhận biết rằng anh ta hiện hữu. Bản ngã
đã đi vào: từ quả của Cây Tri thức bản ngã được tạo ra. Anh ta đã trở nên tỉnh
táo, anh ta bắt đầu phán xét liệu anh ta có đẹp hay không, liệu ở trần truồng
có là tốt hay không; anh ta trở nên nhận biết về thân thể mình. Lần đầu tiên
anh ta trở nên tự ý thức; mãi cho tới lúc đó anh ta đã không tự ý thức. Không
phải là anh không ý thức, anh ta ý thức, nhưng đã không có cái ta trong nó; tâm
thức là thuần khiết, thông suốt. Tâm thức chỉ là ánh sáng thuần khiết, nhưng đột
nhiên bản ngã đứng đó như cột trụ ở giữa tâm thức - cột trụ tối, cột trụ của
bóng tối. Và câu chuyện này nói rằng anh ta đã bị đuổi ra.
Thực ra Thượng đế không cần phải đuổi anh ta ra. Anh ta đã tự
đuổi mình qua việc ăn quả từ Cây Tri thức. Tri thức là việc đuổi ra. Khoảnh khắc
bạn trở nên nhận biết về bản ngã của bạn, bạn bị đuổi ra khỏi cái đẹp, khỏi
phúc lành, khỏi vui sướng, khỏi vui vẻ, điều cuộc sống đã cung cấp cho bạn. Bây
giờ điều gì xảy ra cho cây kia, Cây Cuộc sống? Chẳng cái gì được nói về nó cả.
Diễn giải riêng của tôi là ở chỗ giá mà Adam đầu tiên ăn quả từ Cây Cuộc sống
và rồi ăn từ Cây Tri thức thì chắc đã không bị đuổi ra. Nếu tri thức đã tới qua
việc sống, nếu tri thức đã tới qua kinh nghiệm, sẽ không có việc đuổi ra. Tri
thức này là hư huyễn; nó đã không tới qua kinh nghiệm riêng của anh ta, nó đã
không được kiếm ra, nó còn chưa chín muồi - do đó mới có việc đuổi ra. Nó đã là
vay mượn, nó đã không phải là của nó. Khi nó tới qua kinh nghiệm nó giải thoát,
nó làm cho bạn vui vẻ hơn, nó làm cho bạn vui thích hơn với sự tồn tại. Nếu
Adam mà ăn quả của Cây Cuộc sống trước và rồi ăn quả của Cây Tri thức thì chắc
đã không có việc đuổi ra. Anh ta đã đảo ngược quá trình này: anh ta đã ăn từ
Cây Tri thức. Và một khi bạn ăn từ Cây Tri thức bạn bắt đầu làm mất cuộc sống.
Bạn không thể ăn từ Cây Cuộc sống, cho nên việc đuổi ra thành tự áp đặt.
Nhớ lấy điều đó: tri thức có thể tới theo hai cách. Bạn có
thể có nó từ người khác, từ sách vở, từ mọi người, từ xã hội, và bạn có thể rêu
rao nó là của bạn, nhưng thế thì bạn bị đuổi ra. Và nhớ, việc đuổi ra là tự áp
đặt; không ai đuổi bạn cả. Chính cách tiếp cận rất sai của bạn hướng tới việc biết
trở thành rào chắn. Nhưng tri thức có thể được đạt tới qua cách khác là qua
kinh nghiệm, qua cuộc sống. Ăn quả của Cây Cuộc sống trước và thế rồi tri thức
tới một cách im lặng. Thậm chí không có tiếng thì thầm nào nó nảy sinh trong
linh hồn bạn... bởi vì nếu bạn đi vào kinh nghiệm, bản ngã không được tạo ra. Bạn
càng kinh nghiệm cuộc sống, bạn càng ít có cái ta. Một khi cuộc sống được biết trong
tính toàn bộ của nó, bạn không nghĩ về bản thân bạn như tách rời khỏi sự tồn tại:
bạn đã rơi vào trong sự thống nhất, bạn đã trở thành một, bạn đã trở thành một
với cái toàn thể, bạn là một phần của sự thống nhất hữu cơ của sự tồn tại. Và
thế thì có việc biết, một loại việc biết khác toàn bộ, điều giải thoát. Ăn quả
của Cây Cuộc sống trước đi.
Có chuyện ngụ ngôn khác trong Kinh Thánh là khi Thượng đế tạo
ra thế giới ngài đã bảo Adam đặt tên cho mọi thứ. Ngài sẽ đem tới sư tử và hỏi
Adam 'Con cho con vật này cái tên gì?' Ngài sẽ đem tới voi và hỏi 'Con đặt cho con
vật này tên gì?' Và Adam đặt tên cho mọi thứ và kể từ đó con người đã làm cũng
việc đó. Mọi tri thức của bạn không là gì ngoài việc gắn nhãn, đặt tên. Nếu bạn
hỏi ai đó 'Bạn có biết hoa này không?' và người đó nói 'Có, tôi biết nó là hoa
hồng', người đó biết gì? Chỉ nỗi cái tên. Bạn biết cái gì khác? Bằng việc biết
cái tên "hoa hồng" bạn có biết hoa hồng không? Bằng việc biết từ 'thượng
đế' bạn có biết Thượng đế không? Bằng việc biết cái tên 'yêu' bạn có biết yêu
không? Câu chuyện ngụ ngôn đó cũng hay. Adam là đủ ngu rồi. Anh ta đáng phải
nói 'Không, làm sao con có thể đặt tên được? Con không biết những thứ này.'
Nhưng anh ta đã đặt tên - này voi, này hoa hồng, này sư tử, này hổ - và kể từ
đó đấy là điều con người đã từng làm liên tục qua nhiều thời đại: chỉ đặt tên mọi
thứ. Nếu bạn biết tên của một người, bạn nghĩ bạn biết người đó, cho nên khi bạn
giới thiệu mọi người với nhau bạn chỉ nói cho họ tên của họ hay nước của họ, giống
nòi của họ. Nhưng bạn đang làm gì? Người này có được biết theo cách đó không? Người
này là bao la, khổng lồ thế, làm sao bạn có thể dán nhãn và biết theo nhãn được?
Nhưng đặt tên cho ấn tượng giả - dường như bạn biết.
Một đôi có ngôi nhà mới vừa mới được hoàn thành rất gần đây,
gần như không chuyển vào ở được trước khi các hàng xóm tới để xem xét nó. Một
cách tự nhiên cuộc đối thoại là về chủ đề ngôi nhà mới. 'Nó rất đẹp' một khách
thăm bình luận, 'nhưng tôi không thấy tại sao ông gọi kiểu nhà này là bungalow
- nhà của nợ.' 'Thế này' gười chủ giải
thích 'chúng tôi không biết gọi nó là gì khác. Việc làm này là cẩu thả và chúng
tôi vẫn còn bị nợ nó cho nên chúng tôi gọi nó là nhà của nợ.' Người ta phải gọi
nó là cái gì đó cho nên, 'Việc làm này là cẩu thả và chúng tôi vẫn còn bị nợ nó
cho nên chúng tôi gọi nó là nhà của nợ.'
Người ta phải gọi... cho nên chúng ta cứ gắn nhãn mọi thứ và
thế rồi chúng ta nghĩ chúng ta biết. Bạn biết đích xác điều gì? Nếu bạn vứt bỏ
những cái tên mà đã tích luỹ trong tâm trí bạn, cái gì còn lại? Chẳng có gì,
đích xác, và cái không đó phải được nhận ra, bởi vì chừng nào bạn chưa nhận ra
cái không đó bạn sẽ không bao giờ đi theo chiều hướng đúng. Chiều hướng đúng là
việc biết, không là tri thức.
Các chuyên gia của bạn vẫn đang làm cái gì? Tôi đã nghe về một
bác sĩ:
Ông ấy chỉ mới bắt đầu việc chữa bệnh và bệnh nhân đầu tiên
tới. Ông ấy khám cho bệnh nhân, nhưng không thể nắm được người này đang bị loại
bệnh gì, và ông ấy không muốn biểu lộ rằng ông ấy đã không biết. Cho nên ông ấy
nhìn vào trong sách, nhưng dầu vậy ông ấy vẫn không thể tìm ra được nó. Ông ấy
trở nên rất bồn chồn, và bệnh nhân vẫn ngồi trên giường và quan sát, và ông ấy
bắt đầu vã mồ hôi. Thế rồi đột nhiên một ý tưởng tới với ông ấy. Ông ấy hỏi bệnh
nhân 'Anh đã bao giờ bị bệnh này trước đây chưa?' Người này nói 'Rồi, năm năm
trước tôi đã bị nó.' Và bác sĩ cười và ông ấy nói 'Rồi, một điều là chắc chắn.
Anh bị nó lần nữa!' Ít nhất ông ấy có thể nói cái gì đó bây giờ. Ông ấy thoải
mái. 'Anh bị nó lần nữa!' Nhưng cho dù bạn có thể tìm ra cái tên cho nó điều đó
cũng chẳng có nghĩa gì mấy. 'Tôi thực sự lo lắng về đứa con trai của tôi
Timothy' bà Malone thú nhận với bà bạn thông gia chí thân. 'Nó đã mắc phải thói
quen giấu mọi thứ vào trong túi nó: từ hai mươi đô la để quên ở bàn trang điểm,
thìa bạc của người khác, những thứ kiểu như vậy.... Rồi chồng tôi gợi ý rằng
tôi đưa thằng bé tới gặp bác sĩ Thingamabob, người đã học tập cùng Freud ở
Vienna, và chị có biết không, các cô gái, chồng tôi là tuyệt đối đúng. Bác sĩ
đó đã giải quyết vấn đề của thằng Timothy sau khi nói với nó chỉ một giờ. Ông ấy
đã bảo tôi "Thưa bà Malone, con bà là kẻ cắp."'
Bây giờ bạn đang làm gì? Nhưng dường như vấn đề được giải
quyết. Nó dường như - bằng việc gọi tên, bằng việc đặt nhãn - dường như bạn đã
giải quyết xong vấn đề. Tránh thói quen này đi - đây là một trong những thói
quen nguy hiểm của con người. Và bởi vì thói quen này mà việc xuyên thấu vào thực
tại đã trở thành không thể được. Thói quen này đã trở thành vô ý thức, bắt rễ
sâu, máy móc tới mức khoảnh khắc bạn thấy cái gì đó, bạn lập tức nói ra lời. Bạn
thấy cây và lập tức bạn lặp lại bên trong 'Đây là cây - cây phượng vĩ hay cây
thông. Đây là hoa hồng, đây là hoa cúc vạn thọ.' Bạn liên tục nói cái gì đó bên
trong bất kì khi nào bạn đối diện, đương đầu, bất kì cái gì. Và nếu thỉnh thoảng
bạn bắt gặp cái gì đó mà tên của nó bạn không biết, bạn cảm thấy chút ít không
thoải mái: bạn bắt đầu hỏi 'Cáinày gọi là gì?' Một khi ai đó đã cho bạn cái tên
- bất kì tên nào cũng được - bạn thấy thoải mái. Làm sao bạn trở nênthoải mái dễ
dàng thế? Chỉ bằng việc đặt tên bạn nghĩ bạn đã biết.
Đứa trẻ được sinh ra và bạn cho đứa trẻ cái tên, và khoảnh
khắc bạn cho cái tên đó bạn đã đặt ra một rào chắn. Bây giờ đứa trẻ sẽ tương
đương với cái tên, và cái tên là sự bịa đặt. Đứa trẻ là một điều huyền bí, và
cái tên là rất nghèo nàn. Không cái tên nào có thể bao quát được bất kì người
nào vì từng người là huyền bí thế. Tên nào có thể bao quát được một người? Điều
đó là không thể được. Tôi biết nó là được cần tới, cái tên được cần cho mục
đích tiện dụng, nhưng nhớ cho rõ rằng tên 'hoa hồng' không phải là hoa hồng.
Dùng tên nhưng đừng quên rằng hoa hồng là kinh nghiệm vô cùng. Tennyson đã nói
'Nếu tôi có thể hiểu được đoá hoa, rễ và tất cả, thế thì tôi đã hiểu được toàn
thể sự tồn tại.' Vâng, hoa hồng nhỏ bé là bao là tới mức nếu bạn có thể hiểu được
một đoá hoa hồng nhỏ bạn sẽ hiểu toàn thể sự tồn tại, bởi vì mọi thứ được liên
nối thế. Nếu bạn muốn hiểu hoa hồng bạn sẽ phải hiểu đất: nó đi ra từ đất, đất
là cội nguồn.
Và bạn sẽ phải hiểu trời, bởi vì nó nở hoa trong trời. Bạn sẽ
phải hiểu mặt trời, bởi vì không có mặt trời nó không thể tồn tại được; mầu sắc
tới từ mặt trời. Và nếu bạn đi sâu vào trong nó, bạn sẽ thấy rằng bạn sẽ phải
hiểu mọi thứ tồn tại trong sự tồn tại. Chỉ thế thì việc biết của bạn về hoa hồng
này mới là đầy đủ và toàn bộ. Nhưng chỉ bằng việc gọi tên nó 'hoa hồng' bạn bắt
đầu nghĩ bạn đã biết nó. Những cái tên này cho bạn tri thức và những cái tên
này đơn giản làm lẫn lộn bạn. Joyce, đứa trẻ hay hỏi, hỏi 'Bố ơi, hôm nay là thứ
tư à?' Ông bố kiên nhẫn trả lời 'Không, con gái, hôm nay là thứ năm.' Joyce:
'Nhưng bố nói hôm qua rằng "hôm nay là thứ tư".' Bố: 'Được, hôm nay
là hôm qua của thứ tư. Thứ năm hôm qua là hôm nay của ngày mai. Khi hôm nay là
ngày mai, hôm nay sẽ là hôm qua. Hôm nay là hôm nay bây giờ. Bây giờ con có hiểu
không?' Trò chơi từ, trò chơi... và không gì khác. Mọi triết lí của bạn và mọi
thượng đế học của bạn đều không là gì ngoài trò chơi từ ngữ, chơi với từ. Và
người ta có thể chơi vô tận. Từ này có thể dẫn tới từ khác vân vân và vân vân.
Sự tồn tại hiện hữu, và sự tồn tại không phải là từ. Sự tồn tại
hiện hữu, và sự tồn tại không phải là triết lí. Sự tồn tại hiện hữu, và sự tồn
tại không phải là giáo điều, lí thuyết, kinh sách. Nếu bạn muốn đi vào trong sự
tồn tại, thế thì bạn phải bỏ mọi từ, mọi thói quen nói ra lời; bạn phải bỏ ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là rào chắn. Một khi ngôn ngữ biến mất, bạn là ai? Thế thì bạn có
là người biết không? Thế thì bạn không là người biết. Thế thì bạn biết cái gì
không? Bạn không biết. Bạn không phải là người biết và bạn không biết cái gì,
và đích xác trong khoảnh khắc đó của trống rỗng việc biết nảy sinh. Đó là điều
Thiền nhân gọi là tỏ ngộ - satori. Nếu ngôn ngữ bị bỏ đi, satory xảy ra, và
toàn thể nỗ lực trên con đường của Thiền là cách vứt bỏ ngôn ngữ. Họ cho những
điều ngược đời để giải mà không thể nào được giải. Giải quyết những điều ngược
đời này, dần dần người ta phát chán với bản thân ngôn ngữ. Từ sự cạn kiệt cực
kì một khoảnh khắc tới, ngôn ngữ bị vứt bỏ, tâm thức được tự do - satory đã xảy
ra.
Các Thiền sư nói với đệ tử của họ 'Đi và thiền về âm thanh của
tiếng vỗ tay của một bàn tay.' Bây giờ một tay không thể vỗ được; để vỗ ít nhất
cần hai tay. Một tay không thể tạo ra được âm thanh nào; để âm thanh được tạo ra
cái gì đó được cần tới để va chạm. Âm thanh phát ra từ xung đột. Va chạm! Một
bàn tay không thể tạo ra được âm thanh. Bây giờ điều này là ngớ ngẩn, nhưng đệ
tử phải thiền về nó. Anh ta thiền. Thỉnh thoảng phải mất một năm, thỉnh thoảng
hai năm và thỉnh thoảng hai mươi năm - điều đó là tuỳ. Và đệ tử cứ thiền sáng,
chiều, tối, đêm. Anh ta gần như không ngủ trong năm giờ và lần nữa, đến ba giờ sáng,
anh ta lại ngồi và trò chơi ngớ ngẩn đó - suy nghĩ, thiền...'Âm thanh của tiếng
vỗ tay của một bàn tay là gì?' Và anh ta biết rõ, và trong tâm trí mình anh ta
nói 'Mình làm cái điều vô nghĩa gì thế này? Điều này là không thể được. Mình sẽ
không bao giờ tìm thấy nó.' Nhưng Thầy nói 'Ông phải tìm ra nó.' Và anh ta phải
đi mọi ngày tới Thầy và báo cáo liệu anh ta đã tìm thấy nó hay chưa. Và Thầy sỉ
nhục và thỉnh thoảng đánh anh ta, và thỉnh thoảng thầy ném anh ta ra khỏi phòng
và thầy nói 'Ông đã không tìm thấy nó, Ông chỉ là đồ ngu. Cố gắng chăm chỉ vào.
Cố gắng chăm chỉ hơn.' Và anh ta cố - vất vả gian nan - một năm, hai năm, ba
năm, hay hai mươi năm. Cái gì sẽ xảy ra? Người ta cứ trở nên căng thẳng và căng
thẳng, và không có khả năng nào để giải nó cho nên căng thẳng không thể được
làm thảnh thơi: đó là bí mật của công án. Nếu có câu trả lời nào đó, thế thì căng
thẳng có thể được làm thảnh thơi, nhưng không có câu trả lời. Câu trả lời như
thế là không có thể được - nó đã bị cấm từ chính lúc ban đầu.
Công án là câu đố mà không thể được giải. Nếu nó có thể được
giải, nó không phải là công án. Nếu tâm trí có thể giải được nó, thế thì tâm
trí có thể tiếp tục. Nhưng tâm trí không thể giải được nó, không thể giải được
nó; lặp đi lặp lại tâm trí bị chứng tỏ là bất lực, lặp đi lặp lại bất lực. Lặp đi
lặp lại thất vọng. Lặp đi lặp lại tâm trí cảm thấy 'Mình không thể làm được gì
cả. Mình không thể làm được gì cả.' Và căng thẳng này cứ tiếp diễn, tiếp diễn
và trở thành thượng đỉnh: vang như sấm, ầm ào, như giông tố; cơn điên nảy sinh
từ nó. Và đệ tử này cứ nghĩ hoài 'Âm thanh của tiếng vỗ tay của một bàn tay là
gì?' Và anh ta cứ hỏi tâm trí.
Đầu tiên tâm trí cố cung cấp câu trả lời: ngôn ngữ, lời nói,
vay mượn và Thầy cứ phủ nhận. Cho dù đệ tử vào phòng và không nói gì với Thầy,
Thầy nói 'Không, đây không phải là câu trả lời.' Bởi vì, thực ra, làm gì có câu
trả lời, cho nên Thầy biết không câu trả lời nào có thể được đem tới. Thế rồi,
một hôm - từ cạn kiệt cực kì, từ mệt mỏi cực kì, mệt mỏi toàn bộ - tâm trí rơi
tõm, ngôn ngữ biến mất. Với ngôn ngữ biến mất, với tâm trí biến mất, câu hỏi biến
mất. Ai có đó mà hỏi? Và nếu không có ngôn ngữ, làm sao bạn có thể hình thành
câu hỏi ' Âm thanh của tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì?' Với tâm trí bị vứt
bỏ, câu hỏi biến mất. Có an bình mênh mông, im lặng: trạng thái của vô ngôn ngữ.
Thỉnh thoảng đệ tử có thể không đi. Ai bận tâm đi tới Thầy
bây giờ? Nhưng thế thì Thầy tới hay thỉnh thoảng đệ tử có thể đi, và thậm chí
trước anh ta nói cái gì, Thầy sẽ nói 'Vậy ông đã về nhà, vậy ông đã đạt tới rồi,
vậy ông đã đi qua rào chắn của ngôn ngữ, vậy ông đã trở nên im lặng.' Từ im lặng
đó việc biết trưởng thành. Mọi điều bạn biết, mọi điều bạn nghĩ như tri thức đều
là rác rưởi. Biết nó là rác rưởi và vứt nó đi. Mọi điều được vay mượn, mọi điều
được học từ người khác - và mọi điều bạn biết đều được học từ người khác - đều
phải bị vứt đi. Điều đó là làm mất mặt: mang nó và tuyên bố nó là tri thức chính
là làm mất mặt.
Hai diễn viên hài gặp nhau ở nhà của Lindy. Một người trong
số họ điên tiết. 'Tôi đã gặp ông ở Cung điện' anh ta gầm lên. 'Ông kể mọi chuyện
đùa tôi đã kể trên buổi phát sóng của tôi. Chúng là chuyện đùa của tôi.' 'Trông
đấy, anh bạn khôn ngoan' người bị buộc tội trả lời. 'Bất kì cái gì phát ra từ
chiếc radio của tôi đều là của tôi. Tôi đã trả tiền cho nó, phải không? Bất kì
cái gì phát ra từ radio của tôi đều là của tôi. Tôi đã trả tiền cho nó.' Phải
chăng bất kì cái gì bắt nguồn từ Kinh Thánh của bạn đều là của bạn vì bạn đã
mua Kinh Thánh? Phải chăng bất kì cái gì bắt nguồn từ Koran đều là của bạn vì bạn
là người Mô ha mét giáo? Phải chăng bất kì cái gì bắt nguồn từ Vedas đều là của
bạn vì, một cách ngẫu nhiên, bạn đã được sinh ra trong gia đình Hindu? Mọi điều
bạn biết - chồng nó ra và đốt nó đi vĩnh viễn. Điều đó sẽ là khó bởi vì toàn thể
bản ngã của bạn được tham gia vào trong nó.
Nhận ra sự kiện rằng bạn không biết là điều khó khăn nhất mà
một người có thể làm, nhưng, thực ra, đó là điều rất mang tính người. Khi bạn
làm điều đó bạn đã trở thành con người thực lần đầu tiên. Trước điều đó bạn chỉ
là rởm, giả. Và tri thức này cho bạn cảm giác giả về việc biết, nhưng nó chưa
bao giờ biến đổi cuộc sống của bạn. Nó chưa bao giờ thực sự cho bạn cái gì. Bạn
biết cái gì là tốt, nhưng bạn làm điều không tốt. Bạn biết giận dữ là xấu, nhưng
bạn cứ giận hoài. Bạn biết, nhưng phỏng có ích gì mà dùng tri thức này? Nó chưa
bao giờ trở thành bất kì phần nào của bản thể bạn theo bất kì cách nào, và nó
không thể trở thành được.
Nhiều người tới tôi và họ nói 'Chúng tôi biết, chúng tôi biết
đích xác cái gì là đúng và cái gì là sai, nhưng chúng tôi yếu đuối và chúng tôi
không thể làm được điều đúng và chúng tôi cứ trở thành nạn nhân của điều sai.'
Đó không phải là điều đúng. Họ không yếu đuối. Không ai yếu đuối cả. Thượng đế
chưa bao giờ tạo ra cái yếu - điều đó là không thể được. Thế thì từ đâu nảy
sinh ra vấn đề? Vấn đề nảy sinh bởi vì tri thức không phải là lực biến đổi. Cho
nên bạn biết, nhưng nó chưa bao giờ biến đổi bạn; và nó cho bạn cảm giác rằng bạn
yếu, nó làm cho bạn cảm thấy bất lực. Nhìn vào nó đi. Tri thức của bạn, thay vì
giúp bạn, phá huỷ tự tin của bạn. Tốt hơn cả là giận dữ và không biết rằng giận
dữ là xấu. Nhưng biết rằng giận dữ là xấu và thế thì giận dữ là rất nguy hiểm:
bạn bị chia chẻ. Một phần của tâm trí bạn cứ nói 'Nó là sai' và một phần của
tâm trí bạn cứ làm điều đó tất cả như nhau. Bạn trở nên tinh thần phân liệt.
Tri thức của bạn làm cho bạn bị tinh thần phân liệt. Tri thức là bất lực, do đó
nó làm cho bạn cảm thấy bất lực. Bỏ việc bầu bạn với tri thức đi và thế rồi, nếu
bạn thực sự biết rằng giận dữ là xấu từ kinh nghiệm riêng của bạn, chính việc
biết đó biến đổi. Thế thì bạn sẽ không bao giờ giận dữ nữa. Làm sao bạn có thể
giận được? Một khi bạn biết rằng lửa gây bỏng, làm sao bạn đưa tay mình vào
trong nó được? Không thể được - chừng nào bạn chưa muốn làm bỏng tay mình, thế
thì đó là chuyện khác toàn bộ. Khi bạn biết bạn không thể đi qua tường được và
bạn sẽ làm bị thương đầu, bạn đừng thử - trừ phi bạn muốn đập vỡ đầu bạn.
Việc biết bao giờ cũng trong hài hoà với bản thể bạn. Tri thức
bao giờ cũng ở ngoài hoà điệu. Cảnh sát trưởng giận lắm. 'Bây giờ anh đã trong
lực lượng được hai năm rồi mà chưa bao giờ bắt bớ được gì' ông ta quát lên với
cảnh sát đi tuần Pat. 'Tôi sẽ cho anh một cơ hội nữa. Ai đó đang ăn cắp táo của
Quan toà Davis. Đi tới đó và bắt tên trộm đi.' Thế là Pat đi tới đó và quãng nửa
đêm anh ta vồ được một người đeo mặt nạ trong vườn quả đang cố ăn cắp với một
túi sau lưng. Anh ta mở túi ra và thấy nó chứa bạc có giá trị, cho nên anh ta
trả lại nó cho người đeo mặt nạ. 'Rất tiếc, sai lầm của tôi' Pat nói. 'Nhưng
anh cám ơn sao chiếu mệnh của của anh đi vì nó không phải là táo.'
Đó là cách nó xảy ra. Tri thức không bao giờ cho bạn sáng suốt,
thay vì thế, nó làm cho bạn mù quáng. Tri thức là mù quáng; việc biết là sáng
suốt, sáng tỏ, trong suốt. Tri thức là cũ; việc biết bao giờ cũng tươi tắn, trẻ
trung, nó nảy sinh từ bây giờ. Tri thức là rất cổ đại. Tôn giáo cứ thiết lập những
cái cũ của họ. Người Hindu nói rằng họ là tôn giáocổ nhất trên thế giới, người
Do Thái cũng nói thế, người Jain cũng nói thế. Cổ đại nhất - tại sao? Tại sao có
nỗ lực thường xuyên này để chứng minh rằng chúng ta là cổ nhất? Bởi vì tri thức
là có giá trị nếu nó cổ. Tri thức giống như rượu: càng cổ nó càng có giá trị
hơn. Và tri thức là gây say. Vâng, nó giống rượu, nó là ma tuý: nó làm bạn đờ đẫn,
nó làm bạn không nhạy cảm, nó làm bạn vô ý thức. Việc biết là tươi tắn. Con người
của việc biết đi tới cái biết của mình từng khoảng khắc lặp đi lặp lại. Người
đó chưa bao giờ mang cái cũ. Người đó sống trong khoảnh khắc, người đó mang
tính đáp ứng, nhạy cảm, tỉnh táo, nhận biết.
Một hoạ sĩ chân dung Pháp ngồi trong quán cà phê ưa thích của
mình nhấp nháp rượu. Chai rượu nhỏ thứ nhất của ông ấy hết, ông vừa định đặt
chai thứ hai, thì mắt ông ấy lọt vào dòng tiêu đề của tờ báo, 'Thời vất vả đang
tới', cho nên thay vì đặt chai thứ hai thường lệ của mình, ông ta gọi để trả
séc. 'Có gì sai với rượu không ạ?' người chủ hỏi. 'Rượu ngon, nhưng tôi đã
không gọi chai thứ hai vì thời vất vả đang tới và chúng tôi phải tiết kiệm' nghệ
sĩ giải thích. 'Thời vất vả' ông chủ nói. 'Thế thì vợ tôi phải không đặt bộ quần
áo lụa mà chúng tôi đã lập kế hoạch nhưng phải lấy bộ quần áo vải bông thôi.' 'Thời
vất vả' người may quần áo nhắc lại khi đơn hàng bị cắt bỏ. 'Lúc này không phải
là lúc mở rộng. Tôi phải làm cải tiến tôi đã lập kế hoạch ở chỗ này.' 'Thời vất
vả, e hèm'? nhà xây dựng nói, khi thợ làm quần áo đã cắt bỏ kế hoạch. 'Thế thì
tôi không thể để bức tranh của vợ tôi được vẽ nữa.' Thế là ông viết thư cho nghệ
sĩ và cắt đơn hàng. Sau khi nhận được thư, nghệ sĩ lại đi vào hiệu cà phê ưa
thích và đặt một chai rượu nhỏ để làm dịu mình. Trên chiếc ghế là tờ báo mà ông
ấy đã đọc về thời vất vả vài ngày trước đây. Ông ta nhặt nó lên đọc kĩ càng hơn
và thấy rằng nó đã cũ mười năm rồi.
Nhưng tri thức luân chuyển. Nó cứ đi từ tay này sang tay khác
và nó ảnh hưởng tới mọi người vô cùng. Họ bắt đầu sống - ít nhất họ cố gắng sống
từ nó. Nó làm họ què quặt họ. Bạn có tất cả trở thành què quặt. Bạn đã không định
tâm, bởi vì tri thức của bạn đã buộc bạn ra khỏi việc định tâm của bạn. Đứa trẻ
được định tâm. Khoảnh khắc nó bắt đầu lớn lên và bắt đầu biết mọi thứ, nó bắt đầu
ngày càng không được định tâm hơn, đi lạc lối. Người già hoàn toàn quên hết
trung tâm mình ở đâu.
Chuyện ngụ ngôn này, và tôi gọi nó là ngụ ngôn, là biểu dụ.
Cố hiểu nó đi. Nó có cái đẹp lớn lao. Triệu Hoằng Tử đi săn trong vùng núi
trung tâm với một toán một trăm nghìn người. Ông ấy đốt rừng bằng đốt cỏ cao,
và quạt cho ngọn lửa cháy hàng trăm dặm. Một người bước ra từ trong vách đá,
lên xuống với khói và tro. Đám đông tưởng người đó là quỉ. Khi lửa qua đi người
đó bước ra qua lửa một cách ngẫu nhiên như chưa từng xảy ra cháy. Triệu Hoằng Tử
kinh ngạc và giữ người này lại. Ông ấy nhìn chăm chú vào người này một cách
thong thả. Trong hình dáng, trong mầu sắc, và bẩy khiếu trên đầu người đó, người
đó là con người, trong việc thở, trong tiếng nói, người đó là con người. Ông ấy
hỏi người đó bằng cách nào người đó đã sống trong đá và đi qua lửa. 'Những thứ
này mà ông gọi là đá và lửa là gì vậy?' người đó nói. 'Thứ ông vừa bước ra từ
đó là đá; thứ ông vừa bước qua là lửa.' 'Tôi không biết,' người đó nói. Công tử
Văn của vùng Vi nghe nói điều đó và hỏi Tử Hạ, một kẻ sĩ rất nổi tiếng, 'Đó là
loại người gì vậy?' 'Theo điều tôi đã nghe thầy tôi nói, người trong hài hoà là
tuyệt đối là một như các vật khác và không cái gì làm bị thương hay cản trở người
đó. Đi qua kim loại và đá, và bước đi qua nước và lửa tất cả đều có thể.' 'Tại
sao đích thân ông không làm điều đó?' Công tử Văn hỏi. 'Tôi còn chưa có khả
năng cắt mở tim tôi và ném ra tri thức trong nó. Tuy nhiên, tôi có thể nói với
ông mọi điều ông muốn biết về nó.' 'Tại sao thầy ông không làm điều đó?' Công tử
Văn hỏi. 'Thầy tôi là người, mặc dầu có khả năng làm điều đó, lại không có khả
năng làm điều đó.' Công tử Văn vui thích với câu trả lời này.
Bây giờ, đi chầm chậm vào chuyện ngụ ngôn này từng bước một.
Trước hết: Một người bước ra từ trong vách đá, lên xuống với khói và tro. Đây
là thái độ Đạo nhân rằng nếu bạn di chuyển, tuôn chảy với cuộc sống không kháng
cự gì, không nỗ lực nào, không chiều hướng nào của riêng bạn; nếu bạn đi theo cuộc
sống tới bất kì chỗ nào nó đưa tới như chiếc lá khô bay theo gió.... Gió đi về
phương nam, và lá cũng đi về phương nam; gió đem lá bay lên, và lá đi vào trong
mây; và gió thả nó lại, và lá ngủ im lặng dưới cây trên đất. Lá không có ham muốn
và lá không có chiều hướng của riêng nó. Lá không có bản ngã. Ham muốn và chiều
hướng là sản phẩm phụ của bản ngã. Bạn muốn là ai đó, bạn muốn đạt tới đâu đó,
bạn muốn chứng minh cái gì đó, bạn muốn làm cái gì đó, bạn muốn bơi ngược dòng,
thế thì bạn không phải là con người của Đạo. Đừng bơi chút nào. Không có vấn đề
về đi ngược dòng, nhưng cứ đi cùng sông tới bất kì chỗ nào nó đưa tới. Không đẩy,
không kéo, không cố thao túng cuộc sống, nhưng chỉ lên và xuống cùng nó, thế
thì bạn được tan biến. Thế thì làm sao cái gì có thể làm hại bạn được?
Bạn có quan sát nó không? Đạo nhân cứ kể những câu chuyện
này lặp đi lặp lại mãi. Bạn có thể đã quan sát nó xảy ra nhiều lần - người say
ngã trên đường, nhưng không bị thương; bạn ngã và bạn làm gẫy vài cái xương. Điều
gì xảy ra? Tại sao người say không bị thương trên đường? Và người đó ngã mọi
đêm, và mọi đêm người đó đều phải được mang về nhà... ai đó mang người đó. Và lại
đến sáng người đó đi tới văn phòng mìm cười và hạnh phúc. Tôi thường sống với một
người say. Người đó là hàng xóm của tôi trong vài năm, một người rất đẹp. Và thỉnh
thoảng vợ người đó tới tôi và cô ấy nói 'Chồng tôi đã không về. Anh ấy có thể
đang nằm đâu đó trong cống rãnh và trời thì tối và tôi không thể đi được. Ông giúp
tôi chút xíu được không? Ông có thể đi và tìm anh ấy không?' Và tôi sẽ đi và
tìm anh ta. Nhiều lần tôi đi và thấy anh ta nằm ở cống nào đó hay ở đường nào
đó hay chỉ tựa vào cột và tôi sẽ đem anh ta về. Nhưng anh ta chưa bao giờ bị
thương! Và đến sáng anh ta lại tươi tắn khi lại đi tới văn phòng, và đến tối lại
cùng câu chuyện.
Quan sát anh ta, một điều trở nên tuyệt đối chắc chắn: Đạo
nhân là đúng, bởi vì khi người đó ngã người đó không tự ý thức. Khi người đó
ngã, người đó đơn giản ngã, người đó không chống cự. Khi bạn ngã, bạn đơn giản
không ngã, bạn cố bảo vệ, bạn trở nên cứng, bạn chống lại. Trong chính việc chống
lại đó là nguy hiểm. Khi bạn cứng rắn xương của bạn nhất định bị gãy. Không phải
bởi vì đất định làm đau bạn đâu, chống cự riêng của bạn làm bạn bị thương.
Từ thái độ Đạo nhân này đã nảy sinh nhiều nghệ thuật ở Viễn
Đông: hiệp khí đạo, nhu thuật, và những môn khác. Cách tiếp cận là được thảnh
thơi. Cho dù kẻ thù làm bị thương, hấp thu điều đó thay vì tranh đấu với nó, và
bạn sẽ không bị thương - khó, một nghệ thuật lớn. Thuyết phục bản thân bạn
không trở thành cứng rắn khi ai đó đánh bạn là khó bởi vì chúng ta đã được huấn
luyện trong nhiều thế kỉ để bảo vệ, tranh đấu, vật lộn, làm nỗ lực để sống còn.
Thái độ Đạo nhân là đi cùng cuộc sống, đi tất cả theo đạo,
đi không điều kiện nào. Dù nó dẫn tới bất kì đâu, đi cùng nó. Tin cậy cuộc sống
vô cùng tới mức bạn không sợ, tới mức bạn không có sợ nào về cuộc sống. Bạn tới
từ cuộc sống, bạn là một phần của cuộc sống, cho nên làm sao có khả năng nào để
cuộc sống làm hại bạn được? Không cần phải sợ, không phải sợ hãi. ... lên xuống
với khói và tro... người này ra khỏi vách đá... bước qua lửa. Đám đông tưởng
người đó là quỉ. Khi lửa qua đi người đó bước ra qua lửa một cách ngẫu nhiên
như chưa từng xảy ra cháy.
Điều có trông như phép màu, nhưng phép màu này có thể xảy ra
cho bạn. Tôi không nói 'Đi và bước qua lửa đi.' Đó chỉ là ngụ ngôn thôi - câu
chuyện hay để nói cái gì đó có tầm quan trọng lớn lao. Cố hiểu điều đó trong cuộc
sống của bạn: trở thành không tự ý thức. Đừng mang cái ta này và cuộc vật lộn
thường xuyên với cuộc sống. Thỉnh thoảng thảnh thơi, thỉnh thoảng để mọi sự hiện
hữu và xem điều xảy ra, và bạn sẽ ngạc nhiên. Một khi bạn để mọi sự hiện hữu, một
khi bạn bắt đầu sống trong buông bỏ, hay sống như buông bỏ, thế thì bạn sẽ thấy
rằng cuộc sống không phải là kẻ thù với bạn, nó cực kì thân thiện. Nó phải vậy
- nó là mẹ bạn, nó là bố bạn, nó là cội nguồn của bạn và nó là mục đích của bạn.
Bạn tới từ nó, và một ngày nào đó bạn sẽ biến mất trong nó. Tại sao sợ? Từ sợ
tranh đấu tới. Từ tranh đấu bạn trở thành cá nhân tách rời. Một cách tự nhiên,
khi bạn trở thành cá nhân tách rời bạn trong rắc rối. Thế thì sự tồn tại bao la
này bạn coi như kẻ thù. Đó là cách tiếp cận phương Tây: toàn thể tự nhiên là kẻ
thù của bạn, nó phải bị chinh phục. 'Chinh phục tự nhiên' - đó là điều khoa học
đã từng làm trong hai, ba thế kỉ và nó đã phá huỷ tất cả cái đẹp của cuộc sống.
Nó đã làm ô nhiễm toàn thể bầu không khí. Toàn thể sinh thái của trái đất bị rối
loạn bởi vì những người này, người đã từng cố gắng chinh phục. Điều đó là ngu
xuẩn. Cứ dường như một tay của tôi cố chinh phục toàn thân tôi - điều đó ngu xuẩn
như thế đấy. Con người cố chinh phục trái đất, con người cố chinh phục bầu trời,
con người cố chinh phục tự nhiên chỉ là ngớ ngẩn. Và một khi bạn cố chinh phục
tự nhiên, một cách tự nhiên một ngày này hay ngày khác bạn cũng sẽ cố chinh phục
bản tính bên trong nhất của bạn. Đó là hệ quả của nó, hệ quả tự nhiên của nó. Đầu
tiên bạn cố chinh phục tự nhiên bên ngoài, thế rồi bạn bắt đầu cố gắng chinh phục
tự nhiên bên trong, nhưng thế thì bạn bao giờ cũng trong xung đột, va chạm. Bạn
trở thành bản ngã rất sắc nhọn, và tất nhiên cực kì khổ, khổ khủng khiếp, khổ
vô hạn.
Khổ là bước trật ra ngoài sự tồn tại. Hạnh phúc là đi trong
cùng bước với sự tồn tại. Và đi trong cùng bước với sự tồn tại là đơn giản thế
bởi vì nó là tự nhiên thế. ... lên xuống với khói ... Khi lửa qua đi người đó
bước ra qua lửa một cách ngẫu nhiên như chưa từng xảy ra cháy. Trong hình dáng,
trong mầu sắc, và bẩy khiếu trên đầu người đó, người đó là con người, trong việc
thở, trong tiếng nói, người đó là con người. Ông ấy hỏi người đó bằng cách nào
người đó đã sống trong đá và đi qua lửa.
Tất nhiên Triệu Hoằng Tử rất ngạc nhiên, bị kích thích tò
mò, bởi hiện tượng này. Ông ấy không thể tin được vào mắt mình - làm sao người
này có thể là con người được? Chúng ta đã đánh mất mọi nghĩa về nhân loại thực.
Người này trông như quỉ, cái gì đó không con người - hoặc cái gì đó quỉ hoặc
cái gì đó thần, nhưng không con người. Thế rồi Triệu Hoằng Tử nhìn người này: Trong
hình dáng, trong mầu sắc, và bẩy khiếu trên đầu người đó, người đó là con người,
trong việc thở, trong tiếng nói, người đó là con người.
Nhớ lấy, trong con người là chỗ trú ngụ của siêu nhân. Con người
không phải là điểm cuối, con người có khả năng vô hạn; con người rất có tiềm
năng. Con người không chỉ là quá khứ, mà cả tương lai nữa. Con người có định mệnh
vô hạn trước người đó. Người đó phải trưởng thành - và người đó có thể trưởng
thành thành chiều cao siêu nhân nhưng trưởng thành không tới từ nỗ lực. Trưởng
thành tới trong hợp tác với tự nhiên. Trưởng thành tới qua hài hoà, qua hợp tác
hài hoà. Trưởng thành tới không như chinh phục, mà như việc buông xuôi.
Đó là khác biệt giữa các tôn giáo khác và Đạo giáo. Các tôn
giáo khác nhấn mạnh ý chí quá nhiều, còn Đạo nhân nói: Ý chí thực sự là thảm hoạ.
Buông xuôi đi. Người ta phải trở thành vô ý chí nhất có thể được. Khoảnh khắc bạn
là vô ý chí, thế thì không có vấn đề gì: mọi khối chắn bị loại bỏ... và sâu bên
trong bạn siêu nhân vươn lên tới chiều cao tối đa. Vâng, người đó trông như người.
Phật cũng trông như người, Lão Tử trông cũng vậy, Krishna trông cũng vậy, Christ
trông cũng vậy. Họ tất cả đều là người, nhưng dầu vậy vẫn có cái gì đó của cõi
bên kia đã thấm vào họ. Bởi vì cõi bên kia đó chúng ta đã cho các cái tên khác
nhau: Jesus được gọi là Christ, 'đứa con duy nhất của Thượng đế'. Đây chỉ là những
cách thức biểu dụ để nói một điều, và một điều duy nhất, rằng cái gì đó của cõi
bên kia đã xảy ra trong Jesus. Ông ấy không còn là con trai của Joseph và Mary.
Cái gì đó của cõi bên kia, cái gì đó của vô hạn đã đi vào trong bản thể ông ấy
- ông ấy là con của Thượng đế.
Người Hindu gọi Krishna là avatar. Avatar nghĩa là Thượng đế
đã giáng xuống, Thượng đế đã tới trái đất. Cái tên khác, biểu dụ khác, nhưng một
điều là chắc chắn: rằng bất kì khi nào người nào đó đã thực sự rơi vào hoà điệu
với tự nhiên, cái gì đó siêu phàm thế đã xảy ra trong cuộc sống của người đó mà
chúng ta không thể chỉ gọi người đó là người được. Chúng ta phải gọi người đó bằng
cái tên mới để chỉ ra rằng người đó đã đi ra ngoài nhân loại. Nhưng nhớ lấy,
người đó đã đi ra ngoài nhân loại bởi vì chính con người đi ra ngoài nhân loại.
Nó là một phần của con người đi ra ngoài nhân loại và chừng nào bạn còn chưa đi
ra ngoài bạn đã không hoàn thành định mệnh của bạn, thế thì bạn không thực sự
là con người. Thế thì bạn chỉ là một người.
Đó là khác biệt tôi đã làm giữa con người và người: Con người
là tĩnh, người là quá trình. Con người là khái niệm tĩnh; người là khái niệm
trưởng thành, khái niệm trưởng thành, chuyển động. Sinh linh người là người thường
xuyên thay đổi trong siêu nhân; và con người là người đã trở nên ngủ, không di
chuyển đi đâu cả, đơn giản khô héo và chết.
Bắt đầu chuyển động đi! Con người giống như băng hà. Người
như dòng sông chảy... băng đã tan. Và khi sông chảy nó nhất định đạt tới đại
dương. Sông được ngụ ý đạt tới đại dương - nó sẽ đạt tới - và không có nhu cầu
về bất kì bản đồ nào. Sông không mang bất kì bản đồ nào. Không có nhu cầu về cột
mốc. Thậm chí không có nhu cầu về người hướng dẫn. Sông đơn giản chảy, không biết
nó đi đâu, và một ngày nào đó nó đạt tới. Điều xảy ra cho tâm thức cũng vậy,
dòng tâm thức. Chỉ nổi một cách tự nhiên , theo cách thảnh thơi, không vội vàng,
không nôn nóng.
Bình thản, điềm tĩnh, trong hợp tác sâu sắc với tự nhiên... tuôn
chảy, và một ngày nào đó bạn sẽ đạt tới. Chỉ bằng việc cho phép dòng chảy xảy
ra, bạn đạt tới. Triệu Hoằng Tử hỏi người đó bằng cách nào người đó đã sống
trong đá và đi qua lửa. Điều đó là tự nhiên. Chúng ta cũng hỏi 'Bằng con đường
nào'? Làm sao ông đạt được?' - phương pháp, công nghệ. Phật được hỏi đi hỏi lại
'Bằng con đường nào thầy đã đạt tới?' Và Phật nói 'Khoảnh khắc ông hỏi câu hỏi
này ông tạo ra rắc rối cho ta, bởi vì ta đã đạt tới nó chỉ khi ta vứt bỏ mọi
con đường: đường vô lộ. Khi ta còn trên đường, ta không thể đạt tới nó được.
Trong sáu năm ta đã vật lộn gian nan. Ta đã làm điều tối đa mà ta có thể làm và
ta đã thất bại. Và ta đã thất bại hoàn toàn. Thế rồi một hôm chẳng cái gì còn lại
để được làm. Ta đã làm mọi điều có thể được làm bởi con người. Không cái gì để
làm, ta đã thảnh thơi... và chính khoảnh khắc đó ta đã đạt tới. Cho nên khi ông
hỏi ta bằng cách nào, ông tạo ra rắc rối cho ta, vì ta đã đạt tới nó chỉ khi ta
đã vứt bỏ mọi con đường.'
Và đó là một trong những sáng suốt vĩ đại nhất đã từng có,
và đó là một trong những điều rất nền tảng của cách tiếp cận Đạo tới cuộc sống.
Đừng bao giờ hỏi 'Bằng con đường nào?' Nếu bạn hỏi, bạn hỏi câu hỏi sai. Và có
khả năng rằng người ngu nào đó có thể trả lời. Người ngu có khắp xung quanh. Nếu
bạn hỏi câu hỏi ngu, bạn nhất định được câu trả lời ngu. Một khi một câu hỏi được
hỏi, bạn sẽ nhận được câu trả lời. Mọi người rất sẵn sàng cung cấp lời khuyên
và câu trả lời, nhưng nếu câu hỏi là sai, câu trả lời nhất định sai, bởi vì chỉ
câu trả lời sai mới có thể khớp với câu hỏi sai. Nếu bạn hỏi câu hỏi sai và tôi
cung cấp cho bạn câu trả lời đúng bạn sẽ nghĩ tôi không liên quan. Bạn đã hỏi
cái gì đó và tôi nói về cái gì đó khác. Điều này xảy ra lặp đi lặp lại mãi.
Trong buổi darshan tôi quan sát mọi người. Nếu họ hỏi câu hỏi
sai và tôi cho họ câu trả lời đúng họ trông chút ít phân vân, họ trông không
thoải mái. Họ cảm thấy dường như họ đã hỏi điều này và tôi đã trả lời cái gì đó
khác: nó không khớp - nó không phải là câu trả lời cho câu hỏi của họ. Và họ
cũng đúng. Nó không phải là câu trả lời cho câu hỏi của họ bởi vì câu hỏi của họ
sai tới mức chỉ câu trả lời sai mới có thể khớp với nó.
Nhớ đừng hỏi câu hỏi sai, bằng không có các tu sĩ và có các
bác học và họ sẽ cung cấp cho bạn câu trả lời. Họ đã từng lừa nhân loại bởi vì
nhân loại, từ ngu xuẩn, hỏi câu hỏi sai. Thế rồi họ cung cấp câu trả lời sai,
và những câu trả lời sai đó khớp hoàn hảo với câu hỏi sai của bạn - và thế thì
họ lừa bạn.
Tôi đã nghe....
Ở một làng thôn quê có một người lao động giết con lợn thiến
của mình; và tục lệ trong những trường hợp đó là gửi thịt; xúc xích, xúc xích
đen và gan cho mọi hàng xóm. Người nông dân này, người đã nhận được vô số quà
thuộc loại này, thấy rằng nếu anh ta tuân theo lệ này anh ta sẽ chẳng còn lại
gì cho bản thân mình. Thổ lộ với một trong các hàng xóm của mình, anh ta nói
'Tôi đã giết con lợn thiến, và nếu tôi phải gửi thịt cho mọi người mà tôi đã từng
nhận từ họ, sẽ chẳng cái gì còn lại cho bản thân tôi cả; bây giờ, tôi cầu ông,
xin ông khuyên tôi làm gì bây giờ?' Với điều đó người hàng xóm đáp 'Nếu như tôi
ở trường hợp của ông, tôi sẽ treo con lợn thiến trên cửa sổ gần cả đêm, và ngày
hôm sau tôi sẽ bảo với mọi người là nó bị lấy trộm. Bằng cách này, tôi sẽ được
tha thứ khỏi việc tặng quà.'
Người lao động này, rất hài lòng với lời khuyên của người bạn,
trở về nhà và thực hành điều đó luôn. Người cho lời khuyên bạn bè này, không bỏ
lỡ việc lợi dụng bóng tối ban đêm, chiếm lấy con lợn thiến và mang nó về nhà. Người
nông dân sững sờ khi sáng sớm anh ta thấy chẳng còn lại gì từ con lợn thiến của
mình! Anh ta phát rồ với phát minh của anh hàng xóm, điều mà mới tối hôm trước anh
ta đã tán thành nhiều thế. Anh ta xông ra để báo động, và người đầu tiên anh ta
gặp là anh bạn cố vấn bạn bè mà anh ta đã kể lại toàn thể câu chuyện, nói 'Ối
ông láng giềng ơi, ông nghĩ gì? Chúng đã đánh cắp con lợn thiến của tôi rồi!' 'Đấy,
đấy' anh hàng xóm nói 'điều đó đúng rồi, thực hiện điều đó đi. Kể cùng câu chuyện
đó với mọi người anh gặp, và tôi không hoài nghi họ tất cả sẽ tin anh.' Người
nông dân bắt đầu thề thốt, và phản đối một cách long trọng nhất rằng đấy không
phải là trò đùa - rằng con lợn thiến của anh ta tuyệt đối bị mất rồi. Nhưng anh
ta càng mạnh mẽ bày tỏ sự tiếc nuối và bực mình, anh hàng xóm lại càng kêu lên
'Đúng rồi, đúng rồi, anh bạn tôi ơi. Thực hiện điều đó cho tốt vào, và tất cả họ
sẽ tha thứ cho món quà của anh.'
Các tu sĩ đã từng khai thác nhân loại, bởi vì con người từ
ngu xuẩn của mình đã từng hỏi những câu hỏi sai. Tất nhiên bạn được câu trả lời
sai, và bạn phải trả giá cho những câu trả lời sai đó. Chúng không tới với giá
rẻ đâu, chúng không tới được cho không đâu; bạn phải trả giá đắt cho chúng.
Người này, Triệu Hoằng Tử đã hỏi 'Bằng cách nào?' Câu hỏi
này dường như logic, liên quan, có nghĩa. Nó không phải vậy, bởi vì cách thức
nghĩa là ý chí. Bạn biết câu ngạn ngữ 'Nơi có ý chí, có con đường.' Để tôi nói
cho bạn: Nơi có con đường, có ý chí. Con đường tới từ ý chí. Con đường không là
gì ngoài ý chí được dịch một cách thực hành vào cuộc sống. Đạo không có con đường,
bởi vì Đạo không có ý chí. Ý chí nghĩa là tranh giành, ý chí nghĩa là tranh đấu.
Mọi con đường đều là cách tranh giành. Đạo là đường vô lộ - không đường - mọi sự
là tốt như chúng vậy. Không có chỗ nào mà đi, cho nên phỏng có ích gì về bất kì
con đường nào? Người ta đơn giản phải thảnh thơi và ở đây-bây giờ. Và nhớ lấy,
thảnh thơi không phải là con đường bạn phải theo. Nếu bạn làm nó thành con đường
sẽ không có thảnh thơi, tại đó ý chí sẽ tới.
Tôi đã đọc một cuốn sách - sách Mĩ tất nhiên. Tiêu đề của cuốn
sách: Bạn phải thảnh thơi! Bây giờ, 'phải' là rất Mĩ và một cách tự nhiên rất
căng thẳng. Bạn phải thảnh thơi! Ngay cả thảnh thơi cũng phải là cái phải sao?
Thế thì làm sao bạn sẽ thảnh thơi được? Nó là cái gì đó để làm và bạn phải làm
- nó gần giống như lời răn. Bạn phải tuân theo lời răn. Nếu bạn không thảnh
thơi điều đó sẽ gần như là bạn phạm tội - bạn phải thảnh thơi! Và bạn sẽ làm gì
khi bạn thảnh thơi? Bạn sẽ làm cái gì đó, và bất kì cái gì bạn làm sẽ sai, bởi
vì thảnh thơi tới chỉ khi bạn không làm gì chút nào. Nếu bạn đang làm cái gì
đó... đếm cừu, hay cứ đếm từ một tới một trăm và thế rồi quay lại từ một trăm, chín
mươi chín, chín mươi tám, trở lại một... bất kì cái gì bạn làm... hay chỉ cố thảnh
thơi toàn thân: thảnh thơi chân và thế rồi thảnh thơi dạ dầy và thảnh thơi
tay... nhưng bạn đang làm nó. Mọi việc làm đều là căng thẳng. Thảnh thơi không
phải là cái gì đó bạn phải làm. Khi bạn không làm cái gì, nó có đó. Khi bạn
không làm, nó có đó. Nó là việc không làm của bạn. Nếu bạn làm cái gì đó, việc
đó sẽ không là việc không làm của bạn.
Điều này là tuyệt đối sai, nói với ai đó 'Bạn phải thảnh thơi!'
Điều đó gần như là bạn đi tới người dở hơi và bạn nói 'Anh phải lành mạnh!' Bây
giờ người đó sẽ làm gì? Người đó dở hơi. Người đó có thể làm nỗ lực lớn để trở nên
lành mạnh - người đó sẽ trở nên dở hơi hơn. Người đó dở hơi bởi vì người đó
căng thẳng. Bây giờ bạn cho người đó mục đích khác để trở nên căng thẳng hơn,
thậm chí hơn.
Không có đường nào. Đạo nói: Vứt mọi con đường đi. Mọi con
đường đều là can thiệp của tâm trí. Mọi con đường đều do con người chế ra. Đạo
là khi không có đường, không có ý chí. Khi bạn không đi đâu cả - không mục đích
để đạt tới, không cái gì để trở thành, không đâu để đạt tới - thế thì bạn sẽ
làm gì? Bạn sẽ đơn giản rơi tõm, bạn sẽ thảnh thơi trong sự tồn tại. Trong
chính khoảnh khắc đó bạn đã vượt qua nhân loại: bạn đã trở thành siêu nhân. Ông
ấy hỏi người đó bằng cách nào người đó đã sống trong đá và đi qua lửa. 'Những
thứ này mà ông gọi là đá và lửa là gì vậy?' Điều đó là hồn nhiên. Người đó
không biết đá là gì và lửa là gì; người đó phải là người rất giống như trẻ con.
Đây là ý tưởng này, ý tưởng Đạo, rằng con người nên hồn nhiên thế - 'mây của
không biết'. 'Những thứ này mà ông gọi là đá và lửa là gì vậy?' người đó nói. 'Thứ
ông vừa bước ra từ đó là đá; thứ ông vừa bước qua là lửa.' 'Tôi không biết,'
người đó nói. Trong cái không biết của người đó là việc biết của người đó: bởi
vì người đó là ở trong trạng thái của không biết nên không có rào chắn. Làm sao
lửa thiêu cháy được bạn nếu bạn không biết rằng nó là lửa và nó làm bỏng? Bây giờ
điều này phải được hiểu.
Nếu bạn muốn hiểu nó đích xác bạn sẽ phải hỏi nhà thôi miên.
Bạn có thể hỏi Santosh của chúng ta nó đích xác nghĩa là gì. Một ngày nào đó
anh ấy có thể làm một thực nghiệm trong thôi miên sâu trước bạn. Trong thôi
miên sâu bạn có thể để một viên sỏi thường vào tay của người bị thôi miên và bạn
có thể bảo người đó, người đang sâu trong vô thức 'Đây là than đang cháy, cháy
nóng bỏng, và anh sẽ bị bỏng.' Và nó chỉ là hòn sỏi thường, lạnh. Và khi bạn để
đá lên tay, người này sẽ bị bỏng, và tay anh ra sẽ biểu lộ rằng đã bị than cháy
để lên nó. Điều gì đã xảy ra? Và bạn cũng có thể làm điều đối lập. Bạn có thể để
than cháy vào tay người đó và bạn có thể nói rằng đấy chỉ là đá lạnh và người đó
sẽ không bị bỏng. Bây giờ, đây là những sự kiện khoa học đã được chứng minh. Điều
gì đích xác xảy ra? Khi bạn để than cháy vào tay của người này tại sao người đó
không bị bỏng? Nếu lửa cháy, thế thì người đó phải bị bỏng chứ.
Có thành vấn đề gì liệu người đó có ý thức hay vô ý thức, bị
thôi miên hay không bị thôi miên? Có thành vấn đề gì nếu bạn nói nó là viên đá
lạnh? Bằng việc nói của bạn làm sao những điều này thay đổi được? Thôi miên
chính là lực chữa lành. Nó đã bị kết án quá nhiều ở phương Tây, đặc biệt bởi vì
thái độ sai của Ki tô giáo, bằng không thôi miên là cánh cửa vào thực tại bên trong.
Và nó phải trở thành cánh cửa trong những ngày tới. Dần dần, ngày càng nhiều
người quan tâm tới nó và ngày càng nhiều nghiên cứu khoa học được thực hiện. Và
nó để lộ ra hiện tượng vô cùng. Một trong các hiện tượng có liên quan tới chuyện
ngụ ngôn này là ở chỗ bạn tạo ra thực tại của bạn bằng việc tin vào nó. Đây là
khám phá vô cùng. Bạn tạo ra thực tại của mình bởi việc tin vào nó. Thực tại là
như bạn tin vào nó. Niềm tin của bạn trở thành thực tại của bạn. Nếu bạn tin
vào thay đổi, thực tại của bạn thay đổi. Con người sống trong thực tại rất
không thực. Đó là nghĩa của từ Hindu maya. Maya nghĩa là ảo thuật, maya nghĩa
là cái dường như có nhưng không có. Chúng ta sống trong maya, chúng ta sống
trong chính thế giới ảo tưởng.
Chúng ta tạo ra thế giới riêng của mình. Bạn có thể đi vào rừng
sâu ở Ấn Độ nơi các xã hội nguyên thuỷ vẫn sống. Họ có hệ thống niềm tin của họ;
bạn sẽ ngạc nhiên - chúng có tác dụng. Ai đó có thể giết một người ở xa, bằng
việc làm nghi lễ nào đó. Nếu người đó muốn giết ai đó không thuộc vào xã hội
nguyên thuỷ, người đó sẽ không có khả năng, nhưng người đó có thể giết bất kì
ai thuộc vào xã hội của người đó bởi vì hệ thống niềm tin của họ là một. Một
khi một người đi tới biết rằng nghi lễ nào đó đã được thực hiện mà bao giờ cũng
giết chết người, người đó sẽ lập tức chết. Người đó đơn giản sa vào chết.
Ở Mĩ, năm 1952, họ đã làm một luật nhỏ, Đạo luật chống thôi
miên, bởi vì trong đại học nào đó vài sinh viên, chỉ vì tò mò, đã làm thực nghiệm
nào đó. Bốn sinh viên đã làm một thực nghiệm trong phòng họ: một người nằm trên
giường và ba người kia thôi miên anh ta. Và cậu bị thôi miên phải đã có năng lực
vô cùng, cậu ta phải đã là người có khả năng lên đồng: cậu ta rơi vào trong
thôi miên sâu thực sự, mà hiếm khi xảy ra. Bình thường, ba mươi ba phần trăm mọi
người là có khả năng bị thôi miên, và trong ba mươi ba phần trăm đó không quá
ba phần trăm là có thể bị thôi miên sâu. Cho nên trong một trăm người, chỉ có
ba người thực sự là chủ thể thôi miên sâu, người có thể đi vào cơn mê. Bằng
không, nhưng người khác đi vào cơn mê, nhưng họ vẫn còn chỉ ở ngoại vi: họ sẽ
làm cái gì đó mà họ đồng ý làm. Nếu bạn bảo họ làm cái gì đó mà họ không đồng
ý, họ sẽ lập tức ra khỏi thôi miên của họ. Nhưng cậu trẻ này phải đã là một
trong những người hiếm hoi đó, ba phần trăm mọi người. Và ba người kia đã thôi
miên anh ta và họ chơi thôi - hệt như trò đùa - họ đã đọc cuốn sách và họ thử.
Chỉ là ngẫu nhiên mà cậu bé này lại rất bị thôi miên, gợi ý. Và họ nói nhiều điều
và anh ta làm nhiều điều, và thế rồi đột nhiên một ý tưởng tới với một người và
họ nói với anh ta 'Bây giờ bạn chết.' Và cậu bé này chết. Thế rồi họ cố đem cậu
này lại, nhưng một khi một người đã đi rồi; người đó đi rồi; thế thì thôi miên
không thể có tác dụng.
Thôi miên để lộ ra một điều: rằng nếu bạn tin vào cái gì đó
rất sâu sắc, nó bắt đầu vận hành từ tâm trí bạn, từ bản thể bạn - nó trở thành
thực tại. Thực tại không phải bao giờ cũng thực. Bình thường, bất kì điều gì bạn
nghĩ là thực thì chín mươi phần trăm là tưởng tượng, nhưng nó có tác dụng như
thực tại. Phật đã định nghĩa thực tại là 'cái có tác dụng' và định nghĩa đó thực
sự có nghĩa. Bất kì cái gì - có tác dụng đều là thực. Nếu ai đó, trong cơn mê
thôi miên sâu, bị bỏng bởi vì bạn để đá lạnh vào tay người đó, thế thì nó làm cho
người đó bỏng. Nó có tác dụng, và người đó sẽ mang vết thương đó trong nhiều ngày.
Thân thể tin vào điều đó, tâm thức tin vào điều đó, thế thì nó vận hành. 'Tôi
không biết,' người đó nói.
Bạn phải đã nghe nói về người bước qua lửa. Họ bước qua vì
tin cậy lớn lao: họ tin rằng lửa sẽ không làm bỏng; họ đi trong cơn mê thôi
miên sâu. Ở Ấn Độ có nhiều người bước qua lửa. Ở Ceylon nhóm người bước qua lửa
giỏi nhất là các sư Phật giáo. Mọi năm, một lần một năm, họ tụ tập quanh ngôi đền
Kandy và họ bước trên lửa. Niềm tin là ở chỗ Phật bảo vệ, và chắc chắn niềm tin
này có tác dụng. Không phải là Phật bảo vệ đâu, nhưng nếu bạn nghĩ rằng Phật bảo
vệ thế thì niềm tin có tác dụng - niềm tin của bạn bảo vệ đấy.
Có lần chuyện xảy ra là nhà truyền đạo Ki tô giáo đi tới thấy
điều đó, và tất nhiên nó là thách thức cho ông ấy... Sư Phật tử đi trên lửa và
Phật bảo vệ sao? Ai đó thách thức ông ấy và nói 'Ông tin vào Christ... thế về
ông thì sao? Sao ông không bước?' Bây giờ thách thức này là tới mức ông ấy
không thể nói không được. Ông ấy là nhà truyền giáo và ông ấy đang thuyết giảng
cho mọi người rằng Phật không là gì cả, Christ là tất cả. Cho nên họ nói 'Vậy
thì chúng ta sẽ xem điều gì xảy ra.'
Ông ấy có thể không bị bỏng nếu ông ấy thực sự tin, nhưng
không người truyền giáo nào đã bao giờ tin. Ông ấy trở nên ngờ vực, ông ấy sợ.
Ông ấy đã bước từ bản ngã không từ tin cậy; ông ấy đã bước khi nói 'Nếu ba mươi
người này không bị bỏng, sao mình phải bị bỏng?' Không phải là ông ấy nghĩ tới
Christ, ông ấy thậm chí đã nhớ Phật ở bên trong - 'Được rồi, xin bảo vệ cho con
nếu ngài bảo vệ cho ba mươi người này.' Nhưng đó là tâm trí nghi ngờ. Ông ấy bị
bỏng, bỏng khủng khiếp. Cùng nhóm đó đã được mời tới Oxford năm 1960 và họ đã
bước ở đó. Hàng nghìn người xem, và một giáo sư triết học, một người đơn giản,
khi nhìn cảnh tượng này đâm ra mê mẩn tới mức không nói gì với bất kì ai ông ta
nhảy vào lửa, và ông ta bước đi và ông ta không bị bỏng. Cái gì đã xảy ra?
Không Phật không Christ - đơn giản thấy rằng ba mươi người này có thể bước, 'Thế
thì sao không? Mình cũng là con người. Đó là cung cách con người có thể.' Chính
ý tưởng rằng đó là cung cách con người có thể đã trở thành tin cậy. Không có
hoài nghi trong nó. Người đó đã nhảy không do dự và người đó có thể bước. Tôi
không nói rằng bạn phải đi và bước trên lửa, nhưng quan sát cuộc sống của bạn
đi và bạn sẽ thấy: nhiều điều xảy ra chỉ bởi vì bạn tin, nhiều điều không thể xảy
ra cho bạn vì bạn không tin. Nhiều điều không có thể bởi vì có nghi ngờ; nhiều
điều trở thành có thể bởi vì có tin cậy. Bạn tạo ra thực tại của bạn. Nhìn vào
huy hoàng của tâm thức con người - bạn tạo ra thực tại của bạn, bạn là trung tâm
của thế giới của bạn. Bạn tạo ra thế giới của bạn, bạn ôm giữ thế giới của bạn.
Nếu bạn khổ, nhớ lấy, chính bạn tạo ra nó. Nếu bạn sướng, biết cho rõ chính bạn
tạo ra nó.
Nó là thế giới của bạn: bạn có thể tạo ra thế giới hạnh phúc,
bạn có thể tạo ra thế giới bất hạnh. Địa ngục là thói quen của bạn trong việc tạo
ra thế giới bất hạnh quanh bạn. Cõi trời là thói quen khác của việc tạo ra thế
giới quanh bạn. Và niết bàn là biết rằng mọi điều tâm trí tạo ra đều vô dụng. Tại
sao không đi vào trong cái đó, cái không do tâm trí tạo ra? Cái đó là cái tối
thượng. Thế thì không có khổ và không có sướng: không tốt, không xấu, không cõi
trời, không địa ngục. 'Tôi không biết,' người đó nói. Người đó đã bước trong lửa
nhưng không bị bỏng. Lửa gây bỏng chỉ bởi vì ý tưởng ở trong bạn là nó gây
cháy. Ý tưởng làm bỏng thực, không phải lửa. Bạn có thể quan sát điều đó trong
những việc nhỏ bé.
Khi người phương Tây tới Ấn Độ họ bắt đầu bị nhiều bệnh: bệnh
lị, bệnh tiêu chảy, bệnh viêm gan. Họ rất sợ về điều kiện mất vệ sinh ở đây. Nước
không sạch, không sạch về khoa học, nhưng người Ấn Độ đã sống với nước đó trong
nhiều thế kỉ và chưa bao giờ từng có vấn đề gì. Nhưng khi bạn tới với ý tưởng rằng
nước mất vệ sinh và bạn uống nó, bạn đang uống ý tưởng của bạn; nó là nguy hiểm,
nguy hiểm hơn là nước mất vệ sinh. Nước có thể mất vệ sinh, nhưng nó không nguy
hiểm như ý tưởng mà bạn uống cùng nó: 'Nó mất vệ sinh.' Bây giờ bạn đang lấy bước
đi nguy hiểm. Nó là gợi ý. Mỗi lúc bạn uống nước gợi ý này đi vào: bạn đang tạo
ra tự thôi miên. Bạn sẽ có thể đứng được bao lâu? Bạn sẽ ngã, bạn sẽ bị viêm
gan. Và khi bạn bị viêm gan, tất nhiên, ý tưởng cũ của bạn được làm mạnh thêm
thậm chí còn hơn: 'Mình là đúng. Nước mất vệ sinh.' Không người Ấn Độ nào bị cả.
Bạn nên đi tới các làng Ấn Độ. Trong cùng cái ao nhỏ, trâu, bò đực, bò cái cùng
tận hưởng mọi thứ, và người cùng làm việc của mình, và mọi thứ cứ diễn ra và chẳng
ai lo lắng gì. Không ai có ý tưởng nào cả. Mọi thứ đều tốt.
Nếu bạn đi tới chỗ linh thiêng Hindu bạn sẽ không tìm thấy ý
tưởng nào, quan niệm nào về vệ sinh. Và những người nghĩ rằng nó là chỗ linh
thiêng và nước là thiêng liêng - bạn thậm chí sẽ không có khả năng uống nước đó
- và họ tận hưởng. Họ đã chờ đợi cả đời họ để tới nước thiêng này và trầm mình
xuống. Và họ uống nó, và họ sẽ mang nước đó về, trong chai và túi bẹt, về nhà họ:
nó là nước thiêng. Nhưng nếu bạn đem nó tới nhà khoa học, ông ấy sẽ nói 'Nó là
không linh thiêng nhất! Vứt nó đi! Đừng đem nó tới đây. Đừng bao giờ chạm vào
nó và đừng bao giờ tới gần nó.' Cái gì đang xảy ra? Ý tưởng trở thành thực tại.
Tôi có lần trong vài tháng đã ở trong một cộng đồng nguyên
thuỷ ở Bastar. Đàn bà đi ra đồng - họ làm việc ở đó - hay ở trong rừng, và đột
nhiên họ bị co bóp dạ con và họ cho sinh ra đứa con. Không ai chăm sóc họ,
không vào bệnh viện, không hộ lí, không bác sĩ, không người nào. Người đàn bà
có thể làm việc một mình trên cánh đồng - cô ấy sẽ giữ đứa trẻ dưới gốc cây và
bắt đầu làm việc lại. Không đau, không bất kì cái gì: họ đã không nghe nói về đau
mà mọi đàn bà văn minh đang chịu, và bởi vì họ đã nghe nói, cho nên họ không chịu
đau. Đàn bà văn minh chịu đau nhiều: một nước càng văn minh, càng nhiều...
Thực ra, người đàn bà phương Tây liên tục nghĩ trong chín tháng
'Bây giờ ngày ấy sắp tới... ngày ấy sắp tới... ngày phán xử sắp tới.' Và cô ấy
cứ thôi miên và thôi miên và thôi miên. Thế rồi, tất nhiên, nó tới. Bạn tạo ra
- chín tháng là việc thôi miên dài và dần dần năng lượng dựng lên và thế rồi
cái đau, thế rồi cái đau vô cùng. Bạn có thể đã không nghe nói tới nhưng ở
Amazon tồn tại một bộ lạc mà không chỉ đàn bà chịu đau khi sinh con, mà ngay cả
người chồng cũng chịu đau. 'Chồng sao?' bạn sẽ nói. Vâng, trong hàng thế kỉ ở bộ
lạc đó ý tưởng đã vẫn còn thịnh hành. Và điều đó dường như rất logic nữa, và rất
xã hội. Tôi nghĩ phụ nữ tự do sẽ đồng ý với điều đó. Tại sao chỉ đàn bà phải chịu
đau? Sao không có bình đẳng? Vậy khi con được sinh ra, đàn bà nằm trên một cũi
và trên cũi kia là chồng, và họ cả hai đều chịu đau! Và tất nhiên, khi đàn ông
chịu đau, anh ta chịu đau nhiều hơn. Anh ta cường tráng và la nhiều hơn và hét
nhiều hơn và chửi thề nhiều hơn. Anh ta đánh bại đàn bà! Và bạn sẽ nghĩ rằng anh
ta đơn giản giả vờ - thế thì bạn nhầm, anh ta không giả vờ; điều đó thực sự xảy
ra. Bác sĩ đã đi tới đó và họ đã quan sát và họ đã kiểm tra thân thể - chuột
rút và đau thực trong thân thể; điều đó thực sự xảy ra. Bởi vì trong hàng thế kỉ
họ đã từng sống với ý tưởng rằng đứa trẻ thuộc về cả hai, cho nên một cách tự
nhiên cả hai đều phải chịu đau.
Bây giờ khi mọi người bắt đầu tới bộ lạc đó và bảo họ 'Bây
giờ, điều này là ngu xuẩn bởi vì trong xã hội chúng tôi chồng chưa bao giờ chịu
khổ!' họ không thể tin được vào điều đó. Họ nói 'Làm sao điều đó có thể được?
Nó không thể được!' Điều đó có vẻ ngớ ngẩn với họ như nó ngớ ngẩn với chúng ta.
Nếu bạn đi tới Bastar và bạn nói rằng đàn bà của bạn chịu đau nhiều lắm, họ cười,
họ nói 'Điều này là ngu xuẩn. Không có đau gì cả.'
Bây giờ, ở vài nước phương Tây, đặc biệt ở Pháp, đẻ không
đau đang được khám phá lại. Vài bác sĩ đang làm việc, và hàng nghìn trẻ con đã
được cho sinh ra mà không có đau đớn gì nhưng lại thôi miên, ý tưởng phải được
đưa sâu vào trong người đàn bà rằng sẽ không có đau. Một khi ý tưởng này lắng đọng
ở đó, không có đau. Bạn sống trong thế giới tự mình tạo ra.
Công tử Văn của vùng Vi nghe nói điều đó và hỏi Tử Hạ, một kẻ
sĩ rất nổi tiếng, 'Đó là loại người gì vậy?' 'Theo điều tôi đã nghe thầy tôi
nói, người trong hài hoà là tuyệt đối là một như các vật khác và không cái gì
thành công trong việc làm bị thương hay cản trở người đó. Người này, Tử Hạ, là
một kẻ sĩ, một bác học. Ông ta đã nghe, ông ta nói 'Tôi đã nghe Thầy tôi nói rằng
khi một người trong hài hoà sâu với tự nhiên, không cái gì cản trở, không cái
gì gây hại, không cái gì làm bị thương người đó. Hài hoà là bảo vệ.' Đi qua kim
loại và đá, và bước đi qua nước và lửa tất cả đều có thể.' 'Tại sao đích thân
ông không làm điều đó?' Công tử Văn hỏi. Một cách tự nhiên, khi bạn biết, tại
sao bạn không tự mình làm điều đó? 'Tôi còn chưa có khả năng cắt mở tim tôi và
ném ra tri thức trong nó. Tuy nhiên, tôi có thể nói với ông mọi điều ông muốn
biết về nó.'
Đó là rào chắn duy nhất. Người này là bác học nhưng phải đã
là người chân thành và trung thực. Người đó đã không bảo vệ tri thức của mình,
người đó chấp nhận dốt nát của mình. Người đó nói 'Tôi không phải là con người của
việc biết - chỉ là con người của tri thức. Tôi đã nghe mọi người nói, tôi đã ở
gần những người biết, nhưng tôi không biết bản thân mình. Tôi chỉ biết về những
điều này.' Tuy nhiên, tôi có thể nói với ông mọi điều ông muốn biết về nó. 'Nhưng
tôi không biết đích xác nó là gì. Về điều đó tôi biết - tôi có mọi thông tin có
thể, tôi đã thu thập mọi thông tin - nhưng khi có liên quan tới tôi, tôi còn
chưa có khả năng ném ra tri thức trong tim tôi, do đó tôi không trong hài hoà.'
Tri thức là không hài hoà với sự tồn tại. Biết là bỏ lỡ việc
biết. Bị nặng gánh với tri thức là ở xa khỏi thực tại. 'Tôi còn chưa có khả
năng cắt mở tim tôi...' Hôm nọ ai đó đã hỏi 'Sao trái tim tôi trống rỗng?' Trái
tim là trống rỗng bởi vì cái đầu của bạn quá đầy. Làm cái đầu trống rỗng đi...
trái tim của bạn sẽ trở thành đầy; nó là cùng năng lượng. Nếu nó dính líu với
cái đầu, trái tim vẫn còn trống rỗng. Nếu nó không dính líu với cái đầu, nó rơi
vào trái tim. Và chỉ khi trái tim bạn đầy, bạn mới đầy. Chỉ khi trái tim bạn đầy
bạn mới nở hoa, bạn mới bừng nở. 'Tại sao thầy ông không làm điều đó?' Công tử
Văn hỏi. 'Thầy tôi là người, mặc dầu có khả năng làm điều đó, lại không có khả
năng làm điều đó.'
Đó là đỉnh cao nhất của người huyền bí. Làm phép màu là vĩ đại,
nhưng chưa đủ vĩ đại đâu. Làm phép màu là vẫn trong thế giới của bản ngã. Chính
ý tưởng về làm nó nghĩa là bạn vẫn tách rời khỏi thực tại. Vĩ đại thực là bình thường
tới mức nó không tuyên bố cái gì cả; nó là bình thường tới mức nó chưa bao giờ
cố chứng minh cái gì. 'Thầy tôi là người, mặc dầu có khả năng làm điều đó, lại
không có khả năng làm điều đó.' Đây là quan niệm của Đạo nhân về Thầy thực: Thầy
thực chưa bao giờ làm phép màu.
Ở phương Tây, người Ki tô giáo cứ cố chứng minh rằng Jesus
đã làm phép màu. Nếu bạn hỏi Đạo nhân, Phật tử, họ sẽ cười. Họ sẽ nói những người
này đang sỉ nhục Jesus. Nếu điều đó là đúng rằng ông ấy đã làm phép màu thế thì
nó đơn giản chứng tỏ rằng ông ấy đã không là Thầy thực - Phật chưa bao giờ làm
phép màu nào. Nhưng thế thì họ đơn giản tưởng tượng, tạo ra dối trá quanh Jesus
sao? Không, thỉnh thoảng phép màu xảy ra quanh Thầy, điều đó là có thể nhưng thầy
chưa bao giờ làm chúng. Phép màu có thể xảy ra quanh Jesus, điều đó là có thể,
nhưng ông ấy đã không làm chúng và ông ấy cứ lặp đi lặp lại điều đó.
Một phụ nữ tới. Cô ấy chạm áo quần của Jesus và cô ấy được
chữa lành. Ông ấy nhìn lại và người đàn bà này rất cám ơn và cô ấy nói 'Tôi rất
biết ơn. Thầy đã chữa lành cho tôi.' Và ông ấy nói 'Đừng nói điều như thế. Niềm
tin của cô đã chữa lành cho cô.' Ông ấy cực kì đúng. Không phải là áo quần của
Jesus đã chữa lành đâu, 'Đấy là niềm tin của cô. Không phải là Jesus đã làm cái
gì, đấy là niềm tin riêng của cô đã làm cái gì đó cho cô.'
Không, ở phương Đông chúng ta chưa bao giờ tuyên bố. Và nếu
ai đó ở phương Đông tuyên bố rằng người đó làm phép màu, điều đó đơn giản chỉ
ra rằng phương Đông đang đánh mất tính phương Đông của nó, chiều cao vĩ đại của
nó; nó đang đi tới bãi chợ, tới chính cái bình thường, tới thế giới kiểu kinh
doanh nơi các tuyên bố là có ý nghĩa. Không... 'Thầy tôi là người, mặc dầu có
khả năng làm điều đó, lại không có khả năng làm điều đó.'
Công tử Văn vui thích với câu trả lời này. Câu trả lời là
hay - ông ấy vui thích. Tất nhiên được vui thích không phải là được chứng ngộ.
Đó chỉ là câu trả lời uyên thâm từ một người mà bản thân người đó không biết
gì, người chỉ 'biết về'. Vâng, câu trả lời được vui thích, nhưng giá mà nó tới
từ con người của việc biết nó chắc đã làm cho người đó được chứng ngộ.
Vui thích chỉ là giải trí. Nghe chân lí vĩ đại là tốt, nhưng
chẳng có gì có giá trị. Chỉ nghe chân lĩ vĩ đại thì không mấy có giá trị chừng
nào bạn chưa nghe mênh mông, toàn bộ tới mức nó trở thành biến đổi, tới mức bạn
trở nên chứng ngộ qua nó. Điều đó tuỳ thuộc vào hai điều. Thứ nhất: phải có một
người mà bản thân người đó đã biết qua kinh nghiệm. Thế thì sẽ phải có ai đó
người sẵn sàng nhận nó với trái tim cởi mở. Bất kì chỗ nào cơ hội hiếm hoi này
nảy sinh - rằng một người biết có đó, người thực sự biết, không qua tri thức,
mà qua kinh nghiệm của người đó, và có một đệ tử, một trái tim mở cảm nhận - bất
kì chỗ nào cơ hội hiếm hoi này nảy sinh, có việc chiếu sáng lớn lao... chứng ngộ.
Xem tiếp – Quay về Mục
lục