Osho - Đạo: Đường vô lộ (Tập 2)
Tử Hạ hỏi thầy:
'Nhan Hồi là người ra sao?'
'Hồi hơn ta về đức nhân.'
'Tử Cống là người ra sao?'
'Tứ biện thuyết giỏi hơn ta.'
'Tử Lộ là người ra sao?'
'Do dũng cảm hơn ta.'
'Tử Trương là người ra sao?'
'Sư trang nghiêm hơn ta.'
Tử Hạ đứng dậy hỏi:
'Vậy thì sao bốn anh đó phải học thầy?'
'Ngồi xuống, ta giảng cho nghe. Hồi có đức nhân nhưng không
quyền biến. Tứ có tài biện thuyết mà không biết giữ lời. Do dũng cảm mà không
biết có lúc nên nhát. Sư trang nghiêm mà không biết hoà đồng với người. Đổi cái
của ta để lấy những đức của bốn anh đó thì ta không đổi. Vì vậy bốn anh đó một
mực thờ ta làm thầy.'
Kẻ thù lớn nhất của tôn giáo không phải là chủ nghĩa duy vật
mà là đạo đức. Tại sao? Bởi vì đạo đức cố áp đặt tâm linh, nó là ước định và
tôn giáo chỉ có thể nở hoa từ bên trong, nó không thể bị áp đặt từ bên ngoài.
Do đó đạo đức tạo ra ảo tưởng về tôn giáo giả.
Đạo đức là kẻ giả vờ, đạo đức là tôn giáo giả. Nó cho bạn sự
kính trọng nhưng nó không cho bạn hiểu biết. Nó cho bạn trò bản ngã lớn nhưng
nó không thể cho bạn tính người. Nó làm cho bạn cảm thấy cao siêu nhưng nó
không giúp trưởng thành bên trong. Và người cảm thấy cao siêu không thể trưởng
thành được. Người đó bị mắc kẹt với bản ngã.
Đạo đức là một loại trang điểm của bản ngã. Vâng, qua đạo đức
bạn có thể trau dồi đức hạnh lớn, nhưng bạn sẽ không bao giờ là đức hạnh. Qua đạo
đức bạn có thể trở nên rất tài nghệ theo chiều hướng nào đó nhưng những tài nghệ
đó sẽ vẫn còn là vô ý thức. Đạo đức không thể đem tới nhận biết bởi vì đạo đức
không dựa trên chứng ngộ.
Điều bản chất phải tới từ bên trong, điều bản chất phải phát
triển như cây, điều bản chất là sống động. Điều không bản chất là bị áp đặt từ
bên ngoài.
Trước khi chúng ta đi vào chuyện ngụ ngôn hay này bốn điều
phải được hiểu rất rõ ràng. Thứ nhất, có hai loại thống nhất trong cuộc sống. Một
thống nhất là máy móc - chẳng hạn, xe hơi. Xe hơi có sự thống nhất nào đó, thống
nhất chức năng, nhưng nó được lắp ráp, nó tới từ dây chuyền lắp ráp. Bạn không
thể lắp ráp cây được, bạn không thể lắp ráp đứa bé được. Chúng có một loại thống
nhất - nhưng nó là khác toàn bộ. Thống nhất của chúng là hữu cơ. Chiếc xe là
máy móc, đứa bé là hữu cơ. Cái máy là máy móc, cây là hữu cơ. Bạn không thể gắn
cây lại, nó mọc lên. Nó mọc ra từ trung tâm bên trong riêng của nó. Nhiều nhất
bạn có thể giúp đỡ - hay cản trở - nhưng bạn không thể gắn cây lại.
Bạn có thể gắn chiếc xe lại, bạn có thể lắp ráp xe - do đó
chiếc xe không có linh hồn, không cái ta, không trung tâm. Nó là sự thống nhất
bề ngoài. Và chiếc xe không thể trưởng thành được, nó không thể cho sinh ra chiếc
xe con mới.
Cây mọc lên và có thể cho sinh ra hàng triệu cây. Và cây có
trung tâm, nó được cai quản bởi trung tâm bên trong nhất. Khi mùa thu tới và lá
khô rụng, ai đem lá mới tới? Chúng tới từ đâu? Chúng tiến hoá từ cốt lõi bên
trong nhất của cây.
Nếu phần máy móc của chiếc xe bị thiếu bạn sẽ phải thay thế
nó. Chiếc xe không thể tự nó tiến hoá được. Nó phụ thuộc vào bạn; nó không có
linh hồn, nó không có kỉ luật bên trong của riêng nó. Nếu bạn cắt cành cây, cành
khác được trung tâm cung cấp, nhưng nếu bạn phá cái máy, chẳng cái gì sẽ tới từ
trung tâm... không có gì, không có trung tâm.
Đạo đức là máy móc, tôn giáo là hữu cơ. Đây là điều cơ sở đầu
tiên cần được hiểu. Đạo đức được gắn vào từ bên ngoài, tôn giáo trưởng thành từ
cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn. Đạo đức tới từ ước định, tôn giáo tới từ
thiền. Đạo đức bị ép buộc bởi người khác, tôn giáo bạn phải kiếm và tìm cho bản
thân bạn. Đạo đức là phương cách xã hội, tôn giáo là cuộc phiêu lưu. Đạo đức bị
chi phối bởi chính khách và tu sĩ, tôn giáo là việc nổi dậy. Rất hiếm khi một
người là tôn giáo - và bất kì khi nào có người tôn giáo đều có cách mạng lớn
quanh người đó.
Người đạo đức là người thường, bình thường như người vô đạo
- đôi khi thậm chí còn bình thường hơn người vô đạo. Người vô đạo đôi khi có
dũng cảm nhưng người đạo đức không có dũng cảm. Người vô đạo đôi khi có thể có
thông minh nhưng người vô đạo không có thông minh. Người vô đạo đôi khi có thể
là nguyên bản nhưng người đạo đức bao giờ cũng lặp lại.
Đạo đức là kẻ thù lớn nhất của tôn giáo bởi vì nó là đồng tiền
giả. Nó giả vờ và nó có thể lừa dối mọi người. Nó đã lừa dối qua các thời đại;
hàng triệu và hàng triệu người đang và đã từng bị đạo đức lừa dối. Và họ nghĩ rằng
khi họ có đạo đức họ có tôn giáo.
Điều thứ hai: đạo đức bao giờ cũng tương đối. Bạn có thể có
nhiều thông minh hơn ai đó khác hay ai đó khác có thể có nhiều đức hạnh hơn bạn.
Ai đó có thể dũng cảm hơn bạn hay hèn nhát hơn bạn. Ai đó có thể chia sẻ nhiều
hơn, đáng yêu hơn, hay bạn có thể đáng yêu hơn ai đó khác. Đạo đức là so sánh.
Không ai có thể nhiều tính tôn giáo hơn bạn hay ít tính tôn
giáo hơn bạn - tôn giáo là không so sánh, khi tôn giáo có đó, nó đơn giản có
đó. Bạn có thể nói Phật là tôn giáo hơn Jesus không? Bạn có thể nói Mahavira
tôn giáo hơn Mohammed không? Bạn có thể nói Lão Tử tôn giáo hơn Krishna không?
Điều đó sẽ là ngớ ngẩn, chính phát biểu này sẽ là ngớ ngẩn - bởi vì tôn giáo
không phải là lượng, nó là tính chất của bản thể. Bạn không thể có nhiều hơn
hay ít hơn. Không có cấp bậc. Bạn có thể chân thực hơn ai đó khác, bạn có thể
nhiều tính trộm cướp hơn ai đó khác - đây là những khả năng - nhưng bằng cách
nào đó bạn có thể có tính tôn giáo nhiều hơn hay ít hơn ai đó khác không? Tôn
giáo nghĩa là thức tỉnh. Tôn giáo nghĩa là bạn đã về nhà. Làm sao bạn có thể ở
nhà ít hơn hay nhiều hơn ai đó khác được?
Khi một người đã trở nên nhận biết, nhận biết của người đó
bao giờ cũng là toàn bộ và đầy đủ, hoàn toàn đầy đủ. Nó không tới từ bộ phận,
nó tới như cái toàn thể - do đó nó là linh thiêng. Tôn giáo tới như cái toàn thể,
đạo đức tới theo đủ hình dạng và kích cỡ. Bạn có thể có gia đình lớn hay có đạo
đức cỡ trung bình - như thuốc đánh răng. Đạo đức tới theo đủ mọi hình dạng và
kích cỡ, tôn giáo chỉ là đầy đủ. Hoặc nó có hoặc nó không có.
Đôi khi mọi người tới tôi và họ hỏi, 'Ai chứng ngộ hơn - Phật
hay Mahavira?' Câu hỏi này là ngớ ngẩn. Ai chứng ngộ hơn? Chứng ngộ nghĩa là bạn
đã đi ra ngoài cái tương đối; nhiều hay ít không thể tồn tại được bây giờ. Ai
chứng ngộ hơn? Chứng ngộ nghĩa là bạn đã biến mất - và do vậy mọi khái niệm
tương đối cũng biến mất. Bạn đơn giản ở đó là sự hiện hữu thuần khiết. Bất kì
khi nào bất kì ai trở thành sự hiện hữu thuần khiết, sự tồn tại thuần khiết, hồn
nhiên nguyên thuỷ, đều không có so sánh. Đi ra ngoài so sánh là trở nên chứng
ngộ - cho nên bạn không thể hỏi câu hỏi này, ' Ai chứng ngộ hơn?' Chính câu hỏi
này là vô nghĩa.
Tôn giáo hoặc là hiện hữu hoặc là không hiện hữu. Đây là điều
thứ hai cần được nhớ.
Điều thứ ba: khi tôn giáo tới, bạn tự nhiên là đạo đức nhưng
điều ngược lại không phải là cảnh ngộ - bạn có thể đạo đức nhưng bạn có thể
không tôn giáo. Khi bạn là tôn giáo bạn tự nhiên đạo đức; đạo đức tới như cái
bóng.
Một đệ tử tới Liệt Tử và hỏi Liệt Tử, 'Tôi phải làm gì, thưa
thầy, để trở nên chứng ngộ?' Và Liệt Tử nói, 'Ông đứng dưới mặt trời, bước đi,
và quan sát cái bóng của ông.'
Người này đi ra, đứng dưới mặt trời, bước đi và quan sát cái
bóng của mình, quay lại, cúi lạy, cám ơn thầy và nói, 'Thầy đã chỉ cho tôi con
đường.'
Đệ tử khác rất phân vân. Cái gì đã truyền qua giữa thầy và
người mới này? Họ hỏi Liệt Tử và ông ấy cười. Ông ấy nói, 'Đơn giản thế. Ta bảo
người đó đi ra mặt trời và bước đi và quan sát cái bóng của người đó. Và người
đó đã hiểu ra vấn đề. Nếu thân thể bước đi, cái bóng theo sau. Cái bóng không
thể bước đi theo cách riêng của nó được. Và cho dù ông có thể thu xếp cho cái
bóng bước đi theo cách riêng của nó, thân thể sẽ không đi theo, không có nhu cầu.'
Đạo đức giống như cái bóng, tôn giáo là hình dáng con người
thực. Khi tôn giáo có đó, đạo đức tới theo cách riêng của nó - nó phải tới,
không có khả năng khác. Nhưng nếu đạo đức có đó, không có nhu cầu cho tôn giáo
có đó. Bạn có thể trở thành người đạo đức mà không trở thành người tôn giáo
chút nào. Bạn có thể có các phẩm chất tốt. Bạn có thể trung thực, chân thành,
thành thực, không bạo hành, nhưng điều đó không làm bạn thành tôn giáo. Nếu bạn
là tôn giáo tất cả các phẩm chất đạo đức đơn giản đi theo bạn.
Khi bạn đạo đức, bạn phải kiểm soát những phẩm chất tốt đó
liên tục, chúng phải được duy trì bằng không chúng sẽ biến mất. Người đạo đức
phải kiểm soát trung thực của mình liên tục vì mọi khoảnh khắc đều có nỗi sợ rằng
người đó có thể hành động không trung thực. Không trung thực đã không biến mất,
nó đã bị kìm nén. Nó có đó, nó chờ đợi trong tầng ngầm của bản thể bạn cho cơ hội
của nó, và một khi cơ hội có đó nó sẽ tự khẳng định bản thân nó với việc báo
thù. Nó có đó và người đạo đức biết nó rõ. Người đó có thể cố gắng để yêu
thương nhưng người đó biết hận thù có đó đang sôi bên trong người đó. Người đó
có thể mỉm cười nhưng người đó biết rằng mắt mình đầy nước mắt. Người đó có thể
không biểu lộ giận dữ của mình nhưng người đó biết rằng trái tim người đó đang
cháy bỏng, và người đó muốn giết. Người đó có thể cầu nguyện nhưng thực sự người
đó muốn nguyền rủa. Người đó biết điều đó. Không có cách nào để không biết.
Bạn có thể lừa người khác nhưng làm sao bạn có thể lừa được
bản thân bạn? Cho dù bạn cố lừa bản thân mình, thực tại sẽ tự khẳng định nó lặp
đi lặp lại và bạn sẽ phải đương đầu với nó lặp đi lặp lại. Và bạn biết rằng mặc
dầu bạn có thể giả vờ rằng bạn là người rất tốt, sâu bên dưới bạn biết bạn xấu
thế nào. Điều đó treo tựa như đá quanh cổ bạn, như đá và giữ cho bạn bị kéo xuống.
Người đạo đức là nhị nguyên: người đó là một thứ ở bên ngoài
và là cái đối lập ở bên trong. Có vật lộn liên tục trong bản thể người đó. Người
đó bị chia chẻ. Người đạo đức là người tâm thần phân liệt. Toàn thể trái đất đã
trở thành tâm thần phân liệt bởi vì các giáo huấn đạo đức. Dạy một người là đạo
đức và sớm hay muộn bạn sẽ đưa người đó tới tràng kỉ của nhà tâm thần. Bạn đã tạo
ra điên khùng trong người đó.
Người này đang cảm thấy giận dữ và bạn nói, 'Đừng giận, giận
là xấu - bởi vì Moses nói vậy, hay Mohammed nói vậy, hay Mahavira nói vậy. Giận
dữ là xấu. Đừng giận.' Giận dữ đang tới một cách tự nhiên nhưng bạn dạy chống lại
nó - bởi vì đặt cược là lớn. Nếu người đó trở nên giận dữ người đó sẽ đánh mất
kính trọng của mình. Người đó có thể được kính trọng chỉ nếu người đó không giận
dữ, cho nên người đó phải giả vờ để được kính trọng.
Nhìn mọi người. Họ đã đánh mất khuôn mặt nguyên thuỷ của họ.
Họ đang đeo mặt nạ, họ đang ẩn đằng sau mặt nạ. Bạn không bao giờ có thể chắc
chắn ai đang ẩn đằng sau mặt nạ. Bạn yêu một người nhưng dần dần bạn sẽ thấy đó
không phải là cùng người bạn đã rơi vào trong tình yêu. Bạn đã không quan sát
điều đó lặp đi lặp lại sao? Khi bạn rơi vào tình yêu với một người, sau vài
tháng - hay thậm chí sau vài ngày nếu bạn là người quan sát lớn bạn sẽ thấy rằng
người này là cái gì đó khác. Người đàn bà này không phải là cùng người đàn bà
mà bạn đã rơi vào tình yêu. Bạn rơi vào tình yêu với cái mặt nạ và bây giờ, từ
từ, thực tại trở thành rõ ràng. Khi bạn sống với một người, người đó không thể
đeo mặt nạ trong hai mươi bốn giờ được. Nó là nặng nề và người đó muốn nghỉ. Và
đôi khi người đó vào kì nghỉ, ngay cả thánh nhân cũng có ngày nghỉ của họ.
Tôi đã nghe.
Trong rạp xiếc có một người mà người quản lí gánh xiếc thường
tuyên bố là người cao nhất thế giới - đâu đó anh ta cao gần hai mét bẩy.
Một phóng viên báo chí tới để phỏng vấn anh ta bởi vì anh ta
là người cao nhất thế giới. Anh ta tự nhiên chọn ngày chủ nhật bởi vì sáng chủ
nhật anh ta được tự do cho mình. Anh ta đi tới rạp xiếc và thấy người này đang
nằm dài ngay trước lêu, tắm nắng. Anh ta rất ngạc nhiên thấy rằng mặc dầu khuôn
mặt vẫn thế mà thân thể không được hai mét bẩy chút nào.
Anh ta hỏi, 'Có chuyện gì vậy? Anh trông không quá mét sáu
lăm với tôi. Nhưng mặt anh dường như là đúng người.'
Người này cười to. Người đó nói, 'Vâng, ông đúng đấy. Tôi là
đúng người rồi - tôi là người cao nhất trên thế giới.'
'Nhưng,' phóng viên đáp, 'vấn đề gì vậy? Ông trông không quá
mét sáu lăm.'
Và người này nói, 'Đây là chủ nhật của tôi. Đây là ngày nghỉ
của tôi. Nếu ông muốn thấy tôi cao hai mét bẩy thì ông phải tới thăm tôi lúc
đang làm bổn phận.'
Nó là việc được kiểm soát.
Khi bạn thấy người lãnh đạo đang nói chuyện cho quần chúng
đó là khuôn mặt khác. Khi bạn gặp tu sĩ ở đền chùa đang tôn thờ đấy là khuôn mặt
khác. Khi bạn rơi vào tình yêu với người đàn bà đấy là khuôn mặt khác. Cô ấy
đang cố là tốt nhất có thể được - nhưng đó không phải là thực tại, đó là thực tại
bị kiểm soát. Cô ấy không thể kiểm soát được nó mãi mãi - đó là lí do tại sao vợ
không đẹp lắm, đó là lí do tại sao chồng xấu. Bạn biết họ. Bạn đã thấy họ vào
ngày nghỉ của họ.
Đạo đức tạo ra phân chia - cái bên trong, cái thực trở nên bị
ẩn kín và cái bên ngoài, cái giả, trở nên được biểu lộ. Đây là một trong những
đại thảm hoạ đã xảy ra cho nhân loại. Tôn giáo làm bạn thành một. Nó lan toả
cái bên trong ra cái bên ngoài.
Tôn giáo làm cho bạn mạnh khoẻ - thế thì bạn bao giờ cũng nếm
trải cùng một điều và bạn không bao giờ lấy ngày nghỉ vì bạn bao giờ cũng là
trong ngày nghỉ rồi. Đó là phẩm chất tự nhiên của bạn.
Điều thứ tư: cây là sống động, máy chỉ tồn tại, nó không sống
động. Con người của đạo đức chỉ tồn tại, người đó không thực sự sống động. Bạn
sẽ không thấy tính sống động, bạn sẽ không thấy toả sáng, bạn sẽ không thấy
năng lượng trào lên, bạn sẽ không thấy tràn đầy cuộc sống tới từ người đó. Người
đó phải kiềm chế bản thể mình và cắt bỏ năng lượng của mình liên tục. Người đó
phải sống ở mức tối thiểu, người đó chưa bao giờ bừng cháy. Người đó bao giờ
cũng sợ sệt. Nếu người đó trở nên sống động quá nhiều thế thì điều bị kìm nén sẽ
bắt đầu tự khẳng định nó. Cho nên người đó bao giờ cũng sợ sệt. Người đó giữ
cho bản thân mình bị kéo xuống. Người đó cứ nắm giữ lấy bản thân mình. Người đó
chưa bao giờ cho phép bản thân mình được buông bỏ toàn bộ bởi vì buông bỏ toàn
bộ sẽ tự nhiên có nghĩa là điều bị kìm nén sẽ đột nhiên bùng phát lên bề mặt.
Nó sẽ giống như núi lửa bùng nổ. Cho nên người đó phải giữ cho bản thân mình ở
mức tối thiểu, người đó phải cho phép chỉ năng lượng tối thiểu - chỉ thế thì
người đó mới có thể kiểm soát được bản thân mình. Với năng lượng tối đa tuôn chảy
người đó sẽ mất kiểm soát, người đó sẽ mất cân bằng.
Con người của đạo đức chỉ có vẻ là sống, nó là hình tướng.
Chỉ con người của tôn giáo mới sống động. Con người của tôn giáo sống ở mức tối
đa và con người của đạo đức sống ở mức tối thiểu. Một cách tự nhiên, ở mức tối
thiểu bạn sống như người bất lực. Bạn không thể giận dữ được cho nên bạn không
thể yêu được bởi vì bao giờ cũng có nỗi sợ rằng nếu bạn sống quá nhiều đôi khi
giận dữ có thể tới. Khi một năng lượng được cho phép diễn đạt toàn bộ, các năng
lượng khác cũng được tự do. Khi bạn mở cánh cửa của bạn cho một điều, các điều
khác cũng sẽ thoát ra. Bạn không thể mở cửa được, bạn bao giờ cũng phải canh chừng.
Nghĩ về khổ của người bao giờ cũng phải canh chừng, người không thể thảnh thơi
được. Người bao giờ cũng canh chừng là người căng thẳng.
Người đạo đức không bao giờ hạnh phúc. Người đó không thể buồn
được - nhiều nhất là không buồn nhưng người đó không bao giờ hạnh phúc, người
đó không bao giờ cực lạc. Trong hàng triệu năm con người đã tồn tại trên trái đất
nhưng chưa bao giờ thấy một ngoại lệ. Chưa bao giờ tìm được một người đạo đức
mà cực lạc. Người đó không thể nhảy múa, người đó không thể ca hát, người đó
không thể hân hoan. Vui vẻ là tự do - và người đó không biết tự do là gì. Cực lạc
là đi ra ngoài bản thân người ta và điều đó là có thể chỉ khi bạn đi qua điều tốt
nhất của bạn, khi bạn được bùng chát với đam mê lớn để sống, khi bạn yêu một
cách toàn bộ, khi bạn được tràn ngập với Thượng đế. Chỉ thế thì cực lạc mới là
có thể.
Cực lạc không phải là của bạn; cực lạc là Thượng đế nhảy múa
trong bạn. Bạn không thể cho phép Thượng đế nhảy múa trong bạn vì bạn không thể
cho phép tự nhiên nhảy múa trong bạn. Bạn thậm chí đã không tự nhiên, làm sao bạn
có thể tâm linh được? Nhớ lấy, tâm linh là giai đoạn cao hơn của việc là tự
nhiên; tâm linh là việc nở hoa tối thượng của việc là tự nhiên.
Người đạo đức chưa bao giờ tự phát. Người đạo đức sống qua
quá khứ. Người đó có tính cách và người đó phải đi theo tính cách. Người đó có
bản kế hoạch tổng thể, người đó có bản đồ, và người đó bao giờ cũng nhìn vào bản
đồ và vận hành qua nó. Người đó chưa bao giờ vận hành trong hiện tại, người đó
là người chết, người đó mang tính cách của mình quanh mình. Đáp ứng của người
đó chưa bao giờ là đáp ứng thực, nó chỉ là phản ứng. Con người của tôn giáo là
có tính đáp ứng chứ không phản ứng.
Và bởi vì người đó có tính cách, con người của đạo đức là dự
đoán được. Bạn có thể quyết định được về người đó, bạn biết rằng người đó sẽ là
trung thực ngày mai bởi vì người đó bao giờ cũng trung thực. Người đó sẽ là
trung thực ngay cả trong hoàn cảnh mà trung thực sẽ làm hại cho người khác. Nơi
trung thực sẽ có tính phá huỷ, ngay cả thế người đó sẽ cứ trung thực - bạn có
thể quyết định được về điều đó. Người đó không có tự do, người đó không có mắt
để nhìn vào mọi thứ, người đó không đáp ứng với thực tại. Người đó đáp ứng theo
nguyên tắc. Khi bạn đáp ứng theo nguyên tắc bạn đơn giản phản ứng, bạn có một
chương trình trong tâm trí, bạn giống như máy tính. Bạn đi theo chương trình -
đúng hay sai không thành vấn đề.
Và hoàn cảnh của cuộc sống thay đổi mọi khoảnh khắc - nhưng
nguyên tắc của bạn là cứng nhắc, nguyên tắc của bạn vẫn còn như cũ. Một cách tự
nhiên con người của đạo đức không bao giờ khớp với bất kì đâu cả; người đó là
người không hợp đâu cả. Rất khó sống với người đạo đức vì người đó bao giờ cũng
là người không hợp. Người đó không nhìn vào thực tại, vào thực tại là gì. Người
đó đơn giản sống qua các nguyên tắc của mình; các nguyên tắc là quan trọng hơn
thực tại.
Người tôn giáo không có nguyên tắc. Để điều đó chìm vào
trong tim bạn. Người tôn giáo không có nguyên tắc dù là bất kì cái gì, người đó
chỉ có nhận biết. Người đó nhìn vào thực tại và bất kì cái gì được yêu cầu người
đó đáp ứng tương ứng. Đáp ứng của người đó là tự phát, không bị chi phối bởi
quá khứ - do đó người tôn giáo là không dự đoán được. Bạn không biết người đó sẽ
làm gì. Thậm chí không biết người đó có thể nói cái gì người đó sẽ làm bởi vì
điều đó sẽ tuỳ thuộc vào hoàn cảnh. Nếu có hơi chút khác biệt trong hoàn cảnh
đáp ứng sẽ khác.
Người tôn giáo không có tính cách - sẽ là khó cho bạn có được
điều đó. Người tôn giáo không có tính cách, bởi vì tính cách tới từ quá khứ.
Người tôn giáo thay vào đó có tâm thức. Hay, nói cùng điều đó theo lời khác,
người tôn giáo không có lương tâm. Người đó có tâm thức và người đạo đức có
lương tâm - không có tâm thức. Người đó vận hành qua các luật chết. Người đó
mang những lời răn, và người đó bao giờ cũng nhìn vào trong lời răn của mình để
cố gắng tìm ra cách hành xử. Người đó bao giờ cũng không hợp, người đó chưa bao
giờ đúng ở bất kì chỗ nào. Người đạo đức không thể đúng được vì người đó có
tính cách. Làm sao bạn có thể đúng được khi bạn có tính cách? Nếu hoàn cảnh là
khác bạn sẽ làm gì? Bạn không thể thay đổi dễ dàng thế.
Người đạo đức là rất cứng nhắc; người đó không có năng động,
người đó không tuôn chảy và linh động. Người đó có căn cước cố định: mọi sự phải
được làm theo cách này. Người đó không thể làm mọi sự theo bất kì cách nào khác,
dù tình huống là bất kì cái gì. Tình huống có thể thay đổi hoàn toàn nhưng mọi
sự phải được thực hiện chỉ theo một cách.
Một Thiền sư, Bokuju, hỏi một đệ tử, 'Âm thanh của tiếng vỗ
tay của một bàn tay là gì?'
Và đệ tử này vẫn còn im lặng. Anh nhắm mắt và rơi vào im lặng
sâu. Bokuju sung sướng và nói, 'Tốt, tốt, ta đồng ý.'
Nhưng thầy khác đã ngồi đó trong khi điều này xảy ra. Khi đệ
tử này đã đi thầy kia nói, 'Ông đã đồng ý quá sớm. Tôi không thấy điều đó. Gọi
đệ tử này quay lại.'
Đệ tử này được gọi lại và thầy kia hỏi, 'Nói cho ta hay, âm
thanh của tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì?' Và anh ta lại nhắm mắt và vẫn
còn im lặng. Và thầy này cười và ông ấy nói, 'Sai, tuyệt đối sai.' Và Bokuju
nói, 'Vâng, tôi đồng ý điều này với thầy.'
Đệ tử này phân vân. Anh ta nói, 'Nhưng tại sao? Mới khoảnh
khắc trước, tôi đã trả lời theo cùng cách - qua im lặng của tôi - và thầy nói,
"Đúng."' Bokuju said, 'Điều đó đã đúng vào khoảnh khắc đó nhưng bây
giờ ông lặp lại. Nó không thể đúng trong khoảnh khắc này bởi vì mọi thứ đã thay
đổi. Đó là đáp ứng, đây là phản ứng. Bây giờ ông đã trở nên cố định. Khi ông đáp
ứng lần đầu tiên không có ý tưởng về cái gì ông đang làm. Nó tới một cách tự
nhiên. Nó tới chỉ đơn giản, hồn nhiên. Tâm trí ông không thao túng. Bây giờ nó
không phải là đáp ứng của tâm thức thiền, nó là của tâm trí thao túng. Bây giờ
tâm trí biết câu trả lời. Bây giờ tâm trí nói, "Tốt. Lại cùng câu hỏi, nên
lại cùng câu trả lời."'
Thầy nói rằng mặc dầu câu hỏi có thể vẫn vậy câu trả lời
không thể vẫn vậy vào khoảnh khắc tiếp. Nó sẽ tuỳ thuộc vào cả nghìn lẻ một thứ.
Điều đó thường xảy ra cho Phật mọi ngày. Ai đó sẽ hỏi, 'Có
Thượng đế không?' và ông ấy sẽ nói, 'Không.' Ai đó khác sẽ hỏi, 'Có Thượng đế
không?' và ông ấy sẽ nói, 'Có.' Và ai đó khác sẽ hỏi, 'Có Thượng đế không?' và
ông ấy sẽ giữ im lặng. Và ai đó lại sẽ hỏi, 'Có Thượng đế không?' và ông ấy sẽ
nói, 'Đừng hỏi câu hỏi vô nghĩa.' Trong một ngày ông ấy cho cả nghìn lẻ một câu
trả lời cho một câu hỏi.
Đại đệ tử của Phật, Ananda, trở nên rất lo nghĩ. Ông ấy nói,
'Thưa thầy, câu hỏi là một nhưng thầy trả lời khác thế, câu trả lời của thầy
mâu thuẫn tới mức chúng tôi đã trở nên phân vân, lẫn lộn.'
Phật nói, 'Ta không trả lời ông, cho nên ông không cần nghe.
Ai đó hỏi câu hỏi và câu trả lời được trao cho người đó, không cho ông. Và người
hỏi là khác, thời gian là khác, tình huống là khác - làm sao câu hỏi có thể là
như nhau được? Một người đã hỏi, "Có Thượng đế không?" là người vô thần.
Người đó đã không tin vào Thượng đế. Ta phải nói có với người đó, ta phải lay
người đó, làm choáng người đó. Ta phải đem người đó ra khỏi ý thức hệ của người
đó, cho nên ta phải nói có. Nhưng không phải là Thượng đế tồn tại đâu - nó là
đáp ứng cho thực tại của người đó. Thế rồi ai đó nói, "Có Thượng đế
không?" và bởi vì người đó là người tin và đã tin vào Thượng đế, ta phải
nói không. Ta phải lay người đó và làm choáng người đó nữa và đem người đó ra
khỏi giấc ngủ. Nếu ta mà nói có với người đó, người đó chắc đã về nhà cứ tưởng
là ta đã đồng ý với người đó, rằng ta cũng đã tin theo cùng cách người đó tin.
Thế thì ý thức hệ của người đó đã được làm mạnh thêm và bất kì ý thức hệ nào được
làm mạnh thêm cũng đều là điều nguy hiểm. Mọi ý thức hệ đều phải bị làm tan
tành, hoàn toàn tan tành, để cho tâm trí trở nên hoàn toàn tự do khỏi ý thức hệ.
'Ta phải vẫn còn im lặng với người khác bởi vì người đó
không hữu thần không vô thần. Câu hỏi của người đó là rất đơn giản và hồn
nhiên. Người đó không có ý thức hệ cho nên ta đã không cần làm choáng người đó.
Người đó là người thực sự im lặng cho nên ta giữ im lặng. Và người đó đã hiểu
ta. Người đó đã hiểu ý tưởng rằng về câu hỏi về Thượng đế người ta phải im lặng.
Chúng là câu hỏi vô nghĩa, không có gì được nói về chúng cả.'
Liệu ông có tin vào Thượng đế hay không không tạo ra khác biệt
gì, ông không thay đổi. Đi và nhìn.... Nhìn vào các kiếp sống của người tin vào
Thượng đế và người không tin vào Thượng đế. Các kiếp sống của họ là như nhau.
Không có khác biệt chút nào. Ai đó đi tới nhà thờ, ai đó khác đi tới đền chùa,
ai đó khác đi tới nhà thờ hồi giáo, nhưng nhìn vào các kiếp sống của họ - không
có khác biệt chút nào. Cho nên phỏng có ích gì mà tin?
Bạn sẽ thấy phẩm chất khác biệt ở trong người không tin vào
cái gì, người đã vứt bỏ mọi niềm tin, người có tâm thức được tự do, được tự do
khỏi mọi ý thức hệ. Mọi ý thức hệ đều trở thành cố định.
Người đạo đức là người của sự cố định, người tôn giáo là
tuôn chảy và linh động. Người đạo đức có ý tưởng cố định về cách sống cuộc sống
của mình; người tôn giáo không có ý tưởng về cách sống cuộc sống của mình. Người
đó để nó cho Đạo, cho Thượng đế, cho cái toàn thể. Người đó buông xuôi theo cái
toàn thể và cái toàn thể sống qua người đó. Người đó không có ý tưởng gì về
cách sống cuộc sống của người đó.
Nhớ lấy, nếu bạn có ý tưởng về cách sống cuộc sống của bạn,
bạn sẽ sống sai. Khi ai đó hỏi tôi, 'Cách đúng để sống cuộc sống của tôi là
gì?' Tôi nói, 'Cách đúng để sống cuộc sống của bạn là không có ý tưởng nào về
cách sống cuộc sống của bạn.' Sống không có ý tưởng và bạn sống đúng. Sống
không có tâm trí và bạn sống đúng. Sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc và bạn
sống đúng. Đừng sống từ quá khứ và đừng sống từ tương lai - chỉ sống ở đây bây
giờ và bạn sẽ sống đúng.
Tử Hạ hỏi thầy:
'Nhan Hồi là người ra sao?'
'Hồi hơn ta về đức nhân.'
Tử Hạ hỏi thầy về bốn người là đệ tử của thầy. Họ tất cả đều
thờ thầy. Nhưng họ phải đã là những người rất nổi tiếng, đôi khi còn rạng rỡ
hơn bản thân thầy. Và những vấn đề này phải đã từng có trong tâm trí của nhiều
người.
Tử Hạ hỏi, 'Nhan Hồi là loại người nào?' Nhan Hồi là một đệ
tử, đệ tử nổi tiếng. Và thầy nói, 'Hồi hơn ta về đức nhân.'
'Tử Cống là người ra sao?'
'Tứ biện thuyết giỏi hơn ta.'
'Tử Lộ là người ra sao?'
'Do dũng cảm hơn ta.'
'Tử Trương là người ra sao?'
'Sư trang nghiêm hơn ta.'
Thầy đang nói rằng nếu bạn lấy các phẩm chất khác nhau và bạn
so sánh họ, thế thì những người này theo cách này khác là tốt hơn thầy. Nếu bạn
lấy các đặc trưng cá nhân những người này là tốt hơn thầy. Ai đó là tốt hơn khi
có liên quan tới dũng cảm, ai đó là tốt hơn khi có liên quan tới đức nhân, ai đó
là tốt hơn khi có liên quan tới biện thuyết, ai đó là tốt hơn khi có liên quan
tới trang nghiêm. Tương đối, về đạo đức, những người này là tốt hơn thầy.
Tử Hạ đứng dậy hỏi:...
Ông ấy phải đã trở nên rất phân vân.
...'Vậy thì sao bốn anh đó phải học thầy?'
Tại sao? Nếu bốn người này là tốt hơn thầy theo cách nào đó,
thầy đáng phải thờ họ chứ. Sao họ thờ thầy?
Và thầy nói,
'Ngồi xuống, ta giảng cho nghe.
Lời này từ thầy - 'Ngồi xuống' - là rất ẩn dụ. Khi Tử Hạ đứng
dậy điều đó nghĩa là ông ấy trở nên bị kích động, ông ấy trở nên phát sốt, tâm
trí ông ấy bị lẫn lộn. Cả nghìn lẻ một ý nghĩ bắt đầu ầm ầm trong ông ấy. Ông ấy
không thể tin được vào điều đó. Vâng, điều này là đúng. Điều thầy nói là đúng.
Mọi người cảm thấy rằng bốn người này có phẩm chất lớn, rằng họ rạng rỡ hơn thầy
theo cách này cách nọ nào đó. Tử Hạ phải đã trở nên rất tò mò. Ông ấy quên mất
rằng bạn không được đứng lên trước thầy, rằng bạn không được hỏi câu hỏi trong
khi đứng trước thầy.
Đây chỉ là biểu dụ - những điều biểu dụ, ẩn dụ. Khi bạn hỏi
một câu hỏi với thầy bạn phải hỏi trong tư thế nào đó, cúi mình xuống, trong cảm
nhận sâu sắc. Câu hỏi phải tới từ thái độ rất khiêm tốn. Và câu hỏi nên tới từ
im lặng sâu sắc, không từ tâm trí xáo trộn, không từ rối loạn, không từ kích động.
Nó nên tới từ tâm trí yên tĩnh, im lặng, từ an bình.
Thầy nói, 'Ngồi xuống.' Đệ tử phải đã quên. Với câu trả lời
thầy cho anh ta phải đã trở nên thực sự rất kích động. Anh ta quên mất điều
mình làm. Anh ta phải đã hành động theo cách vô ý thức.
Thầy nói, 'Ngồi xuống, trước hết ngồi xuống đã.' Và điều đó
không chỉ nói rằng thân thể nên ngồi xuống, chỉ dẫn sâu sắc là hướng tới tâm
trí. Để tâm trí lắng đọng xuống. Chỉ thế thì người ta mới có khả năng hiểu điều
thầy định nói... đó là điều thầy ngụ ý khi thầy nói, 'Ngồi xuống, ta giảng cho
nghe.'
Nhớ lấy, chỉ khi tâm trí ở trong trạng thái lắng đọng sâu bạn
sẽ có cảm nhận. Bằng không, nếu tâm trí bị khuấy động và có mây mù và bụi nảy
sinh khắp nơi, bạn đang trong một loại bão. Thế thì làm sao bạn sẽ nhận được
câu trả lời của thầy?
Đây không phải là thảo luận triết lí, đây là việc xuyên thấu
vào trong thực tại, vào trong bản tính riêng của bạn. Và câu trả lời cho các
câu hỏi được hỏi này không chỉ được ngụ ý thoả mãn cho người tò mò.
Một hôm chuyện xảy ra là một triết gia lớn tới Phật. Phật
đang ngồi dưới gốc cây.
Người này, Phật, phải đã yêu cây cối vô cùng. Ông ấy bao giờ
cũng ngồi dưới cây. Ông ấy đã trở nên chứng ngộ dưới cây - mặc dầu chứng ngộ dưới
cây không phải là điều gì to lớn; nhiều người đã chứng ngộ. Nhưng bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng Phật cũng được sinh ra dưới cây. Và ông ấy cũng đã chết đi
dưới cây.
Mặc dầu Phật là con vua, ông ấy đã không được sinh ra trong
cung điện. Mẹ ông ấy đang đi và họ tới một khu vườn và đột nhiên bà ấy cảm thấy
cơn đau dâng lên. Không có chỗ nào khác cho nên bà ấy xuống đất, đứng dưới cây
và Phật được sinh ra. Về sau ông ấy đã trở nên chứng ngộ dưới cây và thế rồi,
khi ông ấy sắp chết, ông ấy lại nằm dưới cây và chết dưới nó.
Ông ấy phải đã yêu cây cối nhiều lắm. Trong năm trăm năm sau
ông ấy, cây vẫn còn là biểu tượng của ông ấy. Trong năm trăm năm không bức tượng
nào của ông ấy được tạo ra - chỉ cây được vẽ. Cây được đặt trong đền và mọi người
tôn thờ cây đó. Theo một cách nào đó điều đó là rất hay.
Tôi muốn nhắc bạn lần nữa - cây là biểu tượng của tôn giáo bởi
vì nó trưởng thành. Và nó trưởng thành từ cốt lõi bên trong nhất.
Phật ngồi dưới cây và triết gia lớn này nói, 'Thầy đã nói mọi
thứ mà thầy biết rồi sao?' Phật đã trở nên rất già - gần tám mươi tuổi - và
trong vài tháng nữa ông ấy sẽ qua đời. Triết gia lớn này đã tới từ một con đường
dài để hỏi liệu ông ấy đã nói hết mọi điều ông ấy biết không.
Và Phật cầm vài chiếc lá khô trong tay và hỏi triết gia này,
'Ông nghĩ gì, thưa ông? Ta cầm trong tay ta bao nhiêu lá? Và chúng nhiều hơn số
lá khô trong khu rừng này không?' Con đường, toàn thể khu rừng, đầy lá khô; gió
thổi đây đó và lá khô tạo tiếng xào xạc và nhiều âm nhạc. Triết gia nhìn và ông
ta nói, 'Ông hỏi kiểu câu hỏi gì vậy? Làm sao ông có thể có nhiều lá trong tay
ông được? Ông chỉ có vài lá, nhiều nhất là một tá, và có cả triệu lá trong rừng.'
Và Phật nói, 'Vậy nhớ lấy. Điều ta đã nói chỉ giống như vài chiếc lá trong tay
ta. Và điều ta đã không nói là giống như lá khô trong khu rừng này.'
Triết gia nói, 'Thế thì thêm một câu hỏi nữa. Tại sao ông đã
không nói điều đó?' Phật nói, 'Bởi vì điều đó sẽ không giúp cho ông đạt tới niết
bàn, nó sẽ không giúp cho ông thiền - đó là lí do tại sao ta đã không nói điều
đó. Và hơn nữa, điều đó không thể được nói ra. Cho dù ta muốn nói điều đó, nó
không thể được nói ra. Ông sẽ phải kinh nghiệm và biết nó. Nó là tính kinh nghiệm,
nó là tính tồn tại.'
Thầy sẽ nói cái gì đó chỉ khi thầy cảm thấy nó sẽ giúp cho
chứng ngộ của bạn. Thầy sẽ nói cái gì đó chỉ khi thầy cảm thấy bạn sẵn sàng nhận.
Thầy sẽ nói cái gì đó chỉ khi thầy thấy rằng sự sáng tỏ có đó và tâm trí mở; rằng
sự trong suốt có đó và bạn sẵn sàng, với khiêm tốn lớn và biết ơn, để nhận nó.
Bạn không sinh sự, bạn không sẵn sàng thảo luận và tranh cãi. Chỉ trong thông cảm
lớn lao, trong tình yêu lớn lao, khi đệ tử trong quan hệ với thầy, những điều
này mới có thể được truyền trao. Đây là những điều tinh tế.
Thầy nói, 'Ngồi xuống:' Không chỉ về thể chất - lắng đọng
bên trong xuống và đừng bị kích động.
'Ta giảng cho nghe. Hồi có đức nhân nhưng không quyền biến.'
Đây là khác biệt giữa tôn giáo và đạo đức. Lắng nghe cho rõ.
Ngồi xuống và lắng nghe cho rõ. Nhiều người trong các ông đang đứng dậy. Ngồi
xuống và ta sẽ giảng cho nghe.
'Hồi có đức nhân nhưng không quyền biến.'
Đức nhân này không phải là nhận biết. Đôi khi người ta phải
có khả năng không có đức nhân. Đức nhân vĩ đại là khả năng của việc tốt và
không tốt. Đức nhân vĩ đại là khả năng của việc cứng rắn nữa. Nếu đức nhân của
bạn là tới mức bạn không thể khác được thế thì nó không mạnh, nó là yếu. Nếu bạn
không thể hành động được khác đi điều đó đơn giản là bạn bị cố định, bạn không
linh động. Thỉnh thoảng nó cần cứng rắn.
Tôi đã nghe nói về một Thiền sư đang đánh một chiếc xe ngựa
với một người đàn bà và con cô ấy trong xe. Tuyết rơi nhiều và sáng rất lạnh và
không có mặt trời trên trời, trời đầy mây. Thầy bắt đầu lạnh cóng và người đàn
bà trong xe cũng thế. Dần dần ông ấy thấy rằng cô ấy trở nên tái xanh và mất ý
thức. Thế là ông giữ lấy đứa bé, đẩy người đàn bà ra khỏi xe và đánh xe đi.
Người đàn bà bị choáng. Cô ấy bị bỏ lại đứng đó trong tuyết
rơi, con cô ấy đã bị đem đi - đây là loại người gì vậy? Và ông ấy đã đem xe đi.
Cô ấy bắt đầu chạy và la hét và nguyền rủa - và trong vòng nửa dặm, bởi vì mọi
việc chạy và nguyền rủa và la hét, cô ấy đã hoàn toàn ổn thoả!
Thế rồi thầy dừng xe lại, cho cô ấy vào và nói, 'Bây giờ ổn
rồi. Ta phải làm thế bằng không cô đã chết rồi.'
Thỉnh thoảng thực sự đức nhân ngụ ý rằng bạn có thể không đức
nhân nữa. Nếu bạn không thể không đức nhân thế thì đức nhân của bạn không có
giá trị gì mấy đâu. Nó là trau dồi. Nó không phải là từ nhận biết.
Bây giờ nghĩ xem. Nếu bạn mà là người đánh xe đó bạn có thể
đã không làm điều đó. Nó có vẻ như vô đạo đức. Nhưng không phải vậy.
Trong truyền thống Thiền có hàng nghìn trường hợp có vẻ rất
vô đạo đức. Đôi khi thầy nhảy lên đệ tử, đánh đệ tử, ném đệ tử qua cửa sổ. Và
chuyện kể rằng người đó trở nên chứng ngộ - khi ngã ra ngoài cửa sổ người đó đã
trở nên chứng ngộ. Với người không quen thuộc với phương pháp của Thiền điều đó
có vẻ ngớ ngẩn. Làm sao một người có thể trở nên chứng ngộ giống thế này?
Nhưng bạn phải tỉnh táo rằng đệ tử này có thể đã từng làm việc
trong hai mươi năm rồi - thiền, làm việc, thiền, làm việc. Và thế rồi một hôm
thầy thấy rằng chỉ một tầng mỏng của vô nhận biết là còn lại, một tầng rất mỏng.
Thầy quan sát đệ tử nhưng anh ta không thể vượt qua tầng mỏng đó. Nhớ lấy, khi
vô ý thức là rất dầy bạn có thể tranh đấu với nó nhưng khi nó rất mỏng, rất khó
tranh đấu với nó. Thực ra, một khoảnh khắc tới khi nó mỏng tới mức bạn nghĩ nó
không có đó. Nó gần như kính trong suốt; nó trong suốt thế bạn không thấy nó.
Thế thì làm sao bạn có thể tranh đấu với nó được? Chỉ thầy mới có thể thấy rằng
bạn vẫn ở đằng sau kính. Bạn nhìn rất rõ ràng dường như không có kính, nhưng dầu
vậy bạn vẫn ở đằng sau kính. Trong những khoảnh khắc đó thầy sẽ rất cứng rắn.
Thầy sẽ làm cái gì đó rất choáng. Trong cú choáng đó mà tầng mỏng này sẽ bị phá
vỡ. Và chỉ khi nó bị vỡ, không trước đó, bạn mới có khả năng biết rằng cái gì
đó đã có đó ngay trước mắt bạn. Khi nó qua rồi bạn sẽ hiểu rằng tầng mỏng là có
đó - tấm phim mỏng mà mỏng và trong suốt đến mức không có cách nào cho bạn biết.
Thế thì bạn sẽ cảm thấy biết ơn thầy.
'Ngồi xuống, ta giảng cho nghe. Hồi có đức nhân nhưng không
quyền biến.
Đức nhân này là bốc đồng. Bạn gần như là nạn nhân của nó - bạn
không là người chủ của nó. Nếu bạn không thể giúp được mà chỉ là có đức nhân,
đó là sự bất lực.
Ở Nhật Bản có một bức tượng Phật, bức tượng rất hiếm hoi, cực
kì có ý nghĩa. Một trong những người bạn của tôi đã tới Nhật Bản nơi ai đó cho
anh ấy một bản sao, một bản sao bằng nhựa, của bức tượng này. Người bạn tôi là
một người Jaina, và anh ấy không thể hiểu được nó bởi vì nó trông hơi chút phi
logic và không lịch sử.
Trong bức tượng Phật này có một chiếc kiếm trong một tay. Kiếm
sao? Phật chưa bao giờ được biết tới là mang kiếm. Ông ấy không phải là một
Mohammed, ông ấy không phải là một Krishna. Kiếm sao? Nhưng trong bức tượng này
ông ấy có kiếm trong tay.
Và phía này của mặt của ông ấy được chói sáng vô cùng bởi
chiếc kiếm - và nó không giống như mặt của vị Phật, nó giống như mặt của
Arjuna, một chiến binh vĩ đại, người lính vĩ đại. Cách diễn đạt của khuôn mặt
có sự sắc nét cho nó.
Ở tay kia ông ấy mang chiếc đèn, chiếc đèn đất nhỏ, và ở
phía đó của khuôn mặt cách diễn đạt là rất yên tĩnh, rất im lặng, rất giống Phật.
Bây giờ điều này rất ngớ ngẩn. Khi bạn tôi quay trở về từ Nhật
Bản và chỉ cho tôi xem bức tượng anh ta nói, 'Tôi không thể hiểu được nó. Nó ngụ
ý gì?' Tôi nói, 'Nó rất ngụ ý. Nó là cách diễn đạt Thiền. Nó chỉ ra rằng im lặng
của ông phải có khả năng và mạnh mẽ nữa.'
Chiếc đèn của an bình phải có khả năng trở thành chiếc kiếm
vào bất kì khoảnh khắc nào nó được cần tới để là cách đó. Và chiếc kiếm phải có
khả năng trở thành ngọn đèn của an bình vào bất kì lúc nào nó được cần tới để
là cách đó. Người ta phải linh động và mọi cực phải gặp gỡ trong một.
Một người là giầu khi mọi cực đều gặp gỡ trong người đó. Khi
mọi mâu thuẫn đã mất mâu thuẫn của chúng và đã trở thành bạn bè, khi bạn có thể
là đối xử như bạn với các mâu thuẫn, thế thì bạn thực sự giầu. Đây là trạng
thái của người tôn giáo. Người đạo đức chọn lựa, người tôn giáo sống trong vô
chọn lựa.
Hồi có đức nhân nhưng không quyền biến.
Ngay cả khi điều đó sẽ không làm cái gì tốt, thực ra, thậm
chí điều đó có thể làm điều hại - thì thế nữa người đó không thể ngăn chặn được
bốc đồng. Người đó không có khả năng ngăn chặn được nó. Người đó không có khả
năng của việc có tính đáp ứng với thực tại. Người đó vận hàng theo nguyên tắc.
Cho nên thầy nói, 'Về đức nhân anh ta là người tốt hơn ta nhưng dầu vậy có cái
gì đó thiếu trong đức nhân của anh ta. Anh ta đã đi quá nhiều vào cực đoan. Anh
ta đã mất cân bằng. Và người cân bằng mới là mục đích - không xấu không tốt mà
là người đích xác ở giữa; không xấu không tốt mà là người đã siêu việt lên trên
cả hai.'
Và ông ấy có khả năng là cả hai - dù tình huống có thể yêu cầu
bất kì cái gì. Lắng nghe điểm này: khả năng là tất cả là khả năng của người tôn
giáo.
'Tứ (Tử Cống) có tài biện thuyết mà không biết giữ lời.
Nếu bạn có thể hùng biện nhưng không thể im lặng được, hùng
biện của bạn là vô nghĩa. Chừng nào lời còn chưa bắt nguồn từ im lặng chúng là
chết. Chừng nào lời còn chưa tới từ cái trống rỗng bên trong của bạn, chúng là
không đầy. Khi lời tới từ trống rỗng bên trong của bạn chúng mang tính đầy; khi
chúng tới từ im lặng của bạn, được thấm đẫm với im lặng của bạn, chúng có âm nhạc
quanh chúng, chúng có thơ ca và cuộc sống toàn bộ của riêng chúng.
Khi bạn không thể im lặng, khi bạn phải nói và bạn không thể
làm khác, thế thì lời của bạn là vô nghĩa, lời lắp bắp. Thế thì không có thơ
ca, thế thì chúng là rất bình thường. Bạn không quan sát nó sao? Jesus nói cùng
những lời bạn nói, Phật dùng cùng những lời bạn dùng - thế thì khác biệt là gì?
Khi bạn nói lời nào đó chúng không mang nghĩa, không chút nào. Khi Jesus nói
cùng lời chúng cực kì có ý nghĩa - sống động cháy bỏng thế, bắt lửa cùng với
sinh động của ông ấy. Chúng tới từ đâu? Chúng tới từ im lặng của ông ấy.
Jesus thường đi vào im lặng lặp đi lặp lại. Bất kì khi nào
ông ấy tới đám đông, trong vài ngày ông ấy sẽ nói với mọi người, gặp gỡ mọi người,
chuyển đổi mọi người, và thế rồi một hôm đột nhiên ông ấy sẽ nói, 'Bây giờ ta sẽ
đi lên núi hay ra sa mạc. Ta muốn im lặng.' Ông ấy thậm chí bỏ các đệ tử và đi
một mình vào chỗ hoang vu, chỉ để im lặng. Ông ấy vét cạn im lặng của ông ấy bằng
việc nói, im lặng được dùng vào trong lời - bây giờ ông ấy phải trở lại để trở
nên đầy lần nữa, đầy im lặng. Thế rồi ông ấy sẽ đầy thơ ca, thế rồi ông ấy sẽ đầy
bài ca, thế rồi lời của ông ấy sẽ không là lời bình thường, chúng sẽ đầy chói
sáng. Thế thì chúng sẽ đập vào bạn và đi thẳng vào trái tim.
Nhớ lấy, lời đi đích xác vào cùng chiều sâu mà từ đó chúng tới.
Nếu lời của tôi tới từ trái tim tôi chúng sẽ chạm vào trái tim bạn. Nếu chúng tới
chỉ từ đầu tôi chúng sẽ chỉ chạm vào đầu bạn. Điều đó là tuỳ.
Bạn có thấy cung thủ kéo cung lại phía sau không? Anh ta càng
kéo cung lùi xa về phía sau, mũi tên sẽ càng đi xa hơn lên trước. Nếu cung
không được kéo về sau, mũi tên sẽ rơi ngay đoạn ngắn.
Lời tới từ im lặng càng sâu của cốt lõi bên trong nhất của bạn,
chúng sẽ càng đi xa hơn - như mũi tên - vào trái tim của mọi người.
Thầy nói:
'Tứ có tài biện thuyết mà không biết giữ lời.'
Hùng biện là không quan trọng khi có liên quan tới tôn giáo.
Hùng biện là quan trọng trong chính trị, nhưng trong tôn giáo hùng biện là phụ.
Tầm quan trọng nền tảng, cơ bản là im lặng. Lời là phụ, tĩnh lặng là chính. Nếu
lời bắt nguồn từ tĩnh lặng thế thì chúng có ý nghĩa nào đó. Nếu chúng không thể
bắt nguồn từ tĩnh lặng chúng là rác rưởi.
Thầy nói:
'Tứ có tài biện thuyết hơn ta.'
Nhưng thầy tạo ra khác biệt. Tử Cống có thể đã thực hành biện
thuyết nhưng ông ấy không biết im lặng là gì. Ông ấy không thể giữ được lưỡi của
mình.
'Do dũng cảm mà không biết có lúc nên nhát.
Khi bạn dũng cảm nhưng không thể cẩn trọng bạn biến thành
người ngu - bạn trở thành liều lĩnh một cách dại dột, bạn trở thành ngu xuẩn.
Dũng cảm trong bản thân nó là không có giá trị. Nó có thể có tính tự tử, nó có
thể sát hại. Dũng cảm trong bản thân nó là không có giá trị chừng nào không có
ánh sáng bên trong nó của nhận biết, tỉnh táo. Điều đó chính là thận trọng là
gì.
''Do dũng cảm mà không biết có lúc nên nhát.'
Dũng cảm của ông ấy không mấy hữu dụng. Hoặc là ông ấy sẽ tạo
ra rắc rối cho người khác hoặc là ông ấy sẽ tạo ra rắc rối cho bản thân ông ấy.
Dũng cảm của ông ấy sẽ không trở thành điều ích lợi cho ai cả. Dũng cảm là có
ích lợi không phải bởi vì dũng cảm mà bởi vì thận trọng.
Cứ nhìn vào những việc này. Đây là chuyện ngụ ngôn đơn giản
nhưng thầy đang chỉ ra đạo đức và tôn giáo là gì. Nếu bạn thực hành hùng biện,
bạn sẽ quên mất về im lặng. Nếu bạn thực hành dũng cảm, bạn sẽ quên mất về thận
trọng. Nếu bạn thực hành đức nhân, bạn sẽ quên mất rằng đôi khi chính đức nhân
lại không phải là đức nhân. Bạn sẽ bị cố định. Bạn sẽ có cực này nhưng cực khác
sẽ bị bỏ lỡ. Bạn sẽ là một nửa, bạn sẽ không là toàn thể.
Là tích cực và tiêu cực cùng nhau là điều người tôn giáo là
gì. Người vô đạo đức đã chọn một cực, cực tiêu cực; người đạo đức đã chọn cực
kia, cực tích cực - và người tôn giáo sống trong vô chọn lựa. Người đó đã không
chọn cái gì nhưng người đó dùng tất cả, bất kì cái gì là nhu cầu. Đôi khi người
đó tiêu cực như người vô đạo đức và đôi khi người đó tích cực như người đạo đức.
Nhưng không cái gì giữ người đó cả. Người đó không bị giới hạn hoặc bởi tính
tích cực hoặc bởi tính tiêu cực. Người đó là người tự do. Người đó có tự do.
Người đó dùng tất cả và người đó không bị cái gì dùng.
Sư (Tử Trương) trang nghiêm mà không biết hoà đồng với người.
Bạn có thể trang nghiêm nhưng nếu trang nghiêm của bạn trở
thành trò bản ngã thế thì bạn không thể uốn cong được. Và với bản ngã làm sao bạn
có thể thực sự trang nghiêm được? Làm sao bản ngã có thể là thứ trang nghiêm được?
Làm sao bản ngã có thể cho bạn duyên dáng được? Nó sẽ chỉ là cử chỉ bề ngoài, cử
chỉ trống rỗng, bất lực, không cái gì bên trong, chỉ là bình chứa không có nội
dung nào.
Sư trang nghiêm mà không biết hoà đồng với người.
Người ta nên có khả năng thỉnh thoảng không trang nghiêm nữa.
Nếu bạn bao giờ cũng trang nghiêm bạn không thể cười được, nếu bạn bao giờ cũng
trang nghiêm bạn không thể đùa được, nếu bạn bao giờ cũng trang nghiêm bạn sẽ
trở thành vô nhân, bạn sẽ mất đi mọi tính người.
Bạn không quan sát điều đó sao? Những người có thể trở nên
không trang nghiêm đôi khi có nhiều duyên dáng hơn. Ai đó có thể cười, đôi khi
cười như người ngu, có trí huệ hơn người bị ám ảnh với trí huệ và không thể cười
được. Người đó phải bảo vệ trí huệ của mình, người đó phải liên tục canh gác.
Người đó không thể cười được, người đó không thể cho phép bản thân mình cười, bởi
vì mọi người sẽ nghĩ rằng người đó là kẻ ngu. Người đó là người ngu. Người trí
huệ đôi khi có khả năng là ngu xuẩn nữa.
Bạn phải đã nghe nói rằng ngày xưa các vua lớn thường có anh
hề trong triều đình - anh hề của triều đình. Và bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng
họ không phải là người ngu thường, họ là người trí huệ nhất cả nước. Nhà vua
thường có những người trí huệ và người ngu nữa - để giữ cho cân bằng. Bằng
không người trí huệ sẽ làm nhiều thứ thành rất nghiêm túc, khô khan, đờ đẫn, buồn.
Mọi niềm vui sẽ bị mất. Đôi khi bạn có thể trở nên quá nghiêm chỉnh, và chính nghiêm
chỉnh đó có thể trở thành rào chắn trong việc nhìn vào mọi thứ. Người ngu được
cần tới. Khi mọi sự trở thành quá nghiêm chỉnh người đó sẽ làm cái gì đó hay
nói cái gì đó và đem bầu không khí trở lại thái độ con người.
Chẳng hạn, vua nghĩ nghiêm chỉnh về điều chỉnh đạo đức của cả
nước. Không ai được phép nói cái gì không đúng. Phi chân lí phải bị cấm. Người
trí huệ tất cả đều đồng ý; thực ra, bởi vì những người trí huệ này là người phục
vụ của nhà vua, họ sẽ đi xa hơn nhà vua, làm thái quá lên. Người trí huệ này gợi
ý rằng tất nhiên đây là điều đúng nên được làm - phi chân lí phải bị cấm - và
người bị tìm ra là nói điều phi chân lí nào đó phải lập tức bị xử tội chết. Người
đó phải bị treo cổ ở bãi chợ để cho mọi người biết cái giá của việc nói cái gì
không thực sẽ là gì.
Anh hề lắng nghe. Anh hề nói, 'Được. Vậy thì sáng mai tôi sẽ
gặp các ông ở cổng.' Họ nói, 'Anh ngụ ý gì?' Anh hề nói, 'Ở cổng.' Và anh ta
nói với nhà vua, 'Để giá treo cổ sẵn sàng vì tôi sẽ nói điều phi chân lí.' Nhà
vua nói, 'Ngươi có điên không?' Và anh hề nói, 'Tôi bao giờ cũng điên: Nhưng
tôi sẽ gặp tất cả các vị, toàn thể triều đình, tại cổng - và để giá treo cổ sẵn
sàng. Tôi sẽ là người đầu tiên bị treo cổ.'
Đó là thách thức. Giá treo cổ được để sẵn sàng và sáng hôm
sau, khi họ mở cổng thành, anh hề đi vào trên con lừa. Nhà vua hỏi, 'Ngươi đi
đâu, anh hề?' Ông ta rất giận vì họ phải dậy sớm buổi sáng để tới đó. Và anh hề
nói, 'Tôi tới giá treo cổ.'
Bây giờ anh ta tạo ra vấn đề. Nếu bạn giết anh ta, anh ta đã
nói ra chân lí, nếu bạn không giết anh ta, anh ta đã nói dối. Anh ta nói, 'Tôi
đi tới giá treo cả. Chuẩn bị chúng đi. Tôi sẽ chết trên giá treo cổ.' Tất cả những
người trí huệ này và nhà vua đâm ra phân vân. Làm gì với người này? Anh ta đang
nói dối. Nếu bạn giết anh ta lời nói dối trở thành sự thật. Nếu bạn không giết
anh ta, lời nói dối không bị trừng phạt.
Và anh hề phá lên cười. Anh ta nói, 'Các ông đều hề hết. Ai
có thể cấm được cái phi chân lí và ai có thể cấm được cái vô đạo đức? Mọi thứ đều
được cần theo tỉ lệ.'
Mỗi nhà vua đều dùng một anh hề bởi vì những người trí huệ
có xu hướng đi tới cực đoan. Và đi tới cực đoan là một loại hề. Để giữ cân bằng
đôi khi người ta phải quên đi mọi trang nghiêm, đôi khi người ta phải uốn theo
mọi người, cười như anh hề, giống như đứa trẻ - mang tính người.
Bạn đi và nhìn các mahatma - họ chưa bao giờ mang tính người.
Họ sẽ không cười, họ sẽ không đùa, họ sẽ không làm gì mà sẽ chứng minh rằng họ
là người. Họ giữ ở trên tính người. Do đó, nếu họ trông buồn thì cũng không có
gì là bất ngờ cả; nếu mắt họ trông đờ đẫn và buồn, nếu họ trông như chết, điều
đó là tự nhiên.
'Sư trang nghiêm mà không biết hoà đồng với người. Đổi cái của
ta để lấy những đức của bốn anh đó thì ta không đổi. '
Bây giờ nghe câu cực kì quan trọng này.
'Đổi cái của ta để lấy những đức của bốn anh đó thì ta không
đổi. '
Cái là của bạn là thật và cái bạn lấy từ người khác là không
thật. Cái vay mượn không bao giờ thật. Cái vay mượn, cái bắt chước, bao giờ
cũng là giả. Đạo đức là bắt chước, tôn giáo bao giờ cũng là của riêng bạn. Trên
bụi hồng hoa là hoa hồng; đâu đó trong ao hoa sen nở ra. Hoa sen bắt nguồn từ hạt
mầm sen, hoa hồng bắt nguồn từ bụi hồng. Hoa hồng không thể vay mượn hoa sen,
hoa sen không thể vay mượn hoa hồng. Khi tôn giáo nở hoa nó là của bạn; khi bạn
cố đạo đức bạn vay mượn, bạn bắt chước, bạn cố trở thành bản sao giấy than của
ai đó.
Người Ki tô giáo là người cố trở thành bản sao của Christ;
do đó người Ki tô giáo là xấu và Christ là đẹp. Christ là hoa hồng, từ bụi hoa
riêng của mình ông ấy đã nở hoa - đó là tội của ông ấy. Người Do Thái đã không
thích điều đó, họ muốn ông ấy trở thành một Moses, họ muốn ông ấy trở thành hoa
sen. Và ông ấy đã khẳng định cái ta riêng của ông ấy. Ông ấy nói, 'Ta sẽ là bản
thể riêng của ta. Ta sẽ là bản thân ta.' Đó là tội của ông ấy và người Do Thái
không thể tha thứ cho ông ấy được. Nhưng Moses là bông hoa của bản thể riêng của
ông ấy, ông ấy không bắt chước ai cả. Không người tôn giáo nào đã là kẻ bắt chước.
Và mọi cái gọi là người tôn giáo, người là kẻ bắt chước, đều không có tính tôn
giáo chút nào.
Đừng bao giờ vay mượn. Cho dù hoa của bạn là nhỏ, nó là tốt,
nó là của bạn. Cho dù hoa của ai đó khác là rất lớn, có nhiều hương thơm, có
nhiều màu sắc, đừng vay mượn nó. Hoa của bạn là tốt. Nó là định mệnh của bạn.
Thượng đế muốn bạn nở hoa từ bản thể riêng của bạn.
Một nhà huyền môn Hasid lớn sắp chết, tên ông ấy là Josia.
Ai đó quanh ông ấy nói, 'Josia ơi, ông có dàn hoà với Moses không?' Josia mở mắt
ra và nói, 'Quên mọi chuyện về Moses này đi. Ông ấy là không quan trọng. Ta sắp
chết rồi, và ông nói điều vô nghĩa.' Người này trở nên sợ hãi - ông ấy nói gì?
Một người Do Thái ngoan đạo và vào lúc chết lại nói, 'Quên mọi chuyện về Moses
đi.' Và Josia nói, 'Nghe đây, bây giờ ta sắp chết và ta sẽ đối diện với Thượng
đế. Ngài sẽ không hỏi ta, "Josia, sao con không là Moses?" Ngài sẽ
không hỏi ta điều đó đâu. Ngài sẽ hỏi, "Josia, sao con không là
Josia?" Cho nên quên tất cả về Moses đi. Ít nhất vào những khoảnh khắc cuối
này để cho ta một mình. Để ta thu lấy bản thể của ta, để cho ta có thể đứng trước
ngài trên đôi chân của ta. Ta đã phí cả đời ta rồi và bây giờ đến lúc cuối ông
lại tới để hỏi, "Ông có dàn hoà với Moses không?" Ta phải làm gì với
Moses? Nếu Moses chẳng liên quan gì tới ta, ta phải làm gì với ông ấy?'
Đôi khi mọi người tới tôi và họ nói, 'Thầy có đồng ý với Phật
không?' Tôi nói, 'Vô nghĩa! Ông ấy chưa bao giờ đồng ý với tôi cho nên sao tôi
phải bận tâm đồng ý với ông ấy? Ông ấy làm việc của ông ấy, tôi làm việc của
tôi. Câu hỏi về đồng ý này nảy sinh ở đâu?'
Sao bạn phải đồng ý với bất kì ai? Nếu bạn có thể đồng ý với
bản thân bạn, bạn đã đồng ý với Thượng đế rồi. Đủ rồi, quá đủ. Nếu bạn đã đồng
ý với bản thân bạn, nếu bạn đã chấp nhận bản thể bạn - kết thúc. Cuộc hành
trình của bạn đã đi tới chỗ kết. Bây giờ bạn có thể nở hoa.
Thầy nói:
'Đổi cái của ta để lấy những đức của bốn anh đó thì ta không
đổi '
Sẽ là điều máy móc mà đi vay mượn thứ này từ người này, thứ
khác từ người khác. Vay mượn từ nhiều người thế... điều đó sẽ là lắp ráp, nó sẽ
là điều máy móc.
Chiếc xe được lắp ráp, cây mọc lên. Cây là biểu tượng của
tôn giáo và xe là biểu tượng của đạo đức. Bạn có thể lắp ráp chiếc xe. Bạn có
thể ra chợ và mua các bộ phận khác nhau từ các chỗ khác nhau và lắp nó lại. Bạn
có thể làm ra chiếc xe hổ lốn của riêng bạn. Nhưng bạn không thể lắp ráp cây được.
Bạn không thể vào vườn, lấy cành, sang vườn khác, lấy cành khác, lấy hoa từ đâu
đó, lá từ đâu đó, rễ từ đâu đó khác - cây không thể được gắn lại với nhau.
Bạn không thể lắp ráp được tôn giáo. Tôn giáo không được
sinh ra từ dây chuyền lắp ráp.
'... thì ta không đổi. Vì vậy bốn anh đó một mực thờ ta làm
thầy.'
'Họ biết rằng ta có thống nhất hữu cơ, và họ biết rằng họ chỉ
có thống nhất máy móc. Họ biết rằng họ có tài nhưng tài của họ là cố định, và họ
biết rằng ta có cái gì đó tới từ bên trong đi ra bên ngoài, từ trung tâm chảy tới
ngoại vi của ta. Họ biết điều đó, do đó họ thờ ta làm thầy mà không nghi ngại
gì. Họ là vĩ đại theo cách này hay cách khác nhưng cái vĩ đại của họ là có chiều
hướng.'
Đây là điều cuối cùng cần được hiểu. Con người của đạo đức
là có chiều hướng, một chiều. Người đó đi theo một chiều. Con người của tôn
giáo là không chiều, người đó không có chiều nào. Mọi chiều đều sẵn có cho người
đó.
Một nhà thể thao ghi danh con ngựa mình vào cuộc đua ngựa
Kentucky. Con ngựa thắng trước hai mươi con. Sau chiến thắng con ngựa được ghi
danh vào hơn cả tá cuộc đua ở các đường khác nhau và về cuối trong mọi cuộc
đua.
Phân vân, nhà thể thao đem con ngựa tới nhà tâm thần. Sau
khi khám xét kĩ lưỡng, bác sĩ quay sang nhà thể thao và nói, 'Đây là trường hợp
rất đơn giản - trục trặc với con ngựa này là ở chỗ nó có tâm trí một đường!'
Đạo đức là thứ một đường, một chiều. Và người đạo đức trở
thành thiên lệch bởi vì khi ông ấy đi theo một chiều mọi chiều khác bị mất. Nếu
bạn muốn là rất tốt bạn đi đâu để có được năng lượng? Từ các chiều khác sao? Dường
như là đầu ai đó trở thành quá lớn và cả thân thể co lại và trở thành nhỏ. Hay
chân ai đó trở thành lớn và toàn thân co lại và trở thành nhỏ. Đó là hình dáng
của người đạo đức.
Người tôn giáo là sự thống nhất hữu cơ, trong cân bằng. Đầu
người đó, tay người đó, chân người đó, thân thể người đó, tâm trí người đó,
linh hồn người đó, tất cả đều trong hài hoà sâu sắc, trong nhịp điệu sâu sắc.
Người đó là dàn nhạc.
Chuyện ngụ ngôn này phải được thiền sâu sắc. Luôn nhớ đừng
bao giờ vay mượn; luôn nhớ đừng bao giờ bắt chước; luôn nhớ rằng bạn phải trưởng
thành, không ước định bản thân bạn. Bạn phải trở thành cây, bạn phải bừng nở
hoa như cây. Bạn không trở thành cơ cấu hiệu quả, bạn phải trở thành cây để cho
hương thơm của bạn có thể được thoát ra theo gió. Đó sẽ là cúng dường của bạn
cho chân Thượng đế.
Và nhớ, ngài sẽ hỏi, 'Josia, sao con không là Josia?' Ngài sẽ
hỏi bạn, 'Sao con bỏ lỡ bản thể con? Sao con đã không tới đây với bản thể của
con? Sao con đã bỏ lỡ cuộc sống của con khi đi theo những người khác? Ta bao giờ
cũng ở bên trong trái tim con chờ đợi con nhưng con không bao giờ tới đó. Con
theo Moses, Mohammed, Mahavira, Krishna. Con theo mọi người. Con nhìn vào mọi
xó xỉnh nhưng con chưa bao giờ đi vào bản thể riêng của con. Và ta đã ngồi đó
chờ đợi con.'
Khi bạn đi vào trong bản thể riêng của bạn, bạn đã về nhà, bạn
đã đi tới Thượng đế. Thượng đế không là gì ngoài cái tên của tâm thức bên trong
nhất của bạn.
Xem tiếp – Quay
về Mục lục