Osho - Đạo: Ba Kho Báu (Tập 2)
Chương 10: Mọi Phật đều làm giàu cho vũ trụ
Câu hỏi thứ nhất:
Khi người chứng ngộ tan
biến vào trong hài hoà, tính duy nhất của người đó cũng có tan biến không?
Người chứng ngộ, ngay cả
khi người đó còn sống trong thân thể, cũng đã tan biến rồi. Người đó biết rằng mình
không còn nữa, người đó biết rằng mình là cái không. Sự tan biến đã xảy ra rồi.
Thực tế, chẳng cái gì đã tan biến, bởi vì không cái gì đã tách rời từ chính lúc
ban đầu. Tách rời là ảo tưởng.
Cảm giác là 'mình tách rời
khỏi sự tồn tại' chỉ là ảo tưởng, nó không phải là thực tại. Người chứng ngộ đi
tới nhận ra duy nhất điều rằng người đó chưa bao giờ tồn tại trước đây, rằng
người đó không tồn tại bây giờ, và rằng người đó sẽ không tồn tại trong tương
lai. Cái toàn thể tồn tại, không phải là bộ phận.
Bạn có thể nghĩ rằng bạn là
tách rời, nhưng đó chỉ là mơ. Chỉ mơ mới tan biến - không cái gì khác; chỉ dốt
nát mới mất - không cái gì khác; chỉ giấc ngủ tan biến - không cái gì khác.
Nhưng câu hỏi này có liên
quan. Điều gì xảy ra cho tính duy nhất của một Phật, một Lão Tử, một Jesus? Nó
đi đâu? Vũ trụ trở thành duy nhất qua nó. Mọi Phật đều làm giầu cho vũ trụ -
cũng như mọi người ngủ làm nghèo nó đi. Mọi người ngủ đều làm ra một phần của
giấc ngủ vũ trụ, đờ đẫn, chết, và khi hàng triệu người dốt nát tồn tại, toàn
thể sự tồn tại buồn bã, nghiêm chỉnh, ốm yếu.
Một Phật giúp cho thế giới
lại nở tới chính đỉnh cao của nó; lại ca hát tới cực đỉnh của nó; lại nhảy múa
tới toàn bộ khả năng của nó; để đem toàn thể tiềm năng của nó tới biểu lộ, tới
lễ hội. Cho nên khi một Phật tan biến - vì không có cách khác để nói điều đó
trong ngôn ngữ - khi một Phật tan biến, tính duy nhất trở thành tính duy nhất
của cái toàn thể.
Thế thì cái toàn thể được
làm giầu thêm. Thế thì cái toàn thể sẽ không bao giờ lại như cũ nữa. Nó sẽ không
bao giờ vậy.
Đó là nghĩa của người Ki tô
giáo khi quyết định lấy ngày sinh của Jesus làm nhân tố phân chia trong lịch
sử. Toàn thể lịch của người Ki tô giáo, và của người không Ki tô giáo, đều dựa
trên ngày sinh của Jesus. Nó rất biểu tượng. Nó nghĩa là lịch sử bây giờ sẽ
không bao giờ cùng như cũ lần nữa bởi vì Jesus được sinh ra và bởi vì Jesus bị
đóng đinh, và bởi vì Jesus đã vượt qua cái chết, được phục sinh. Bây giờ toàn
thế giới là khác toàn bộ - bạn có thể biết điều đó hay bạn có thể không biết điều
đó. Nếu bạn được sinh ra trước Jesus bạn đã được sinh trong một thế giới hoàn
toàn khác. Jesus đã trao phẩm chất của mình cho thế giới. Đó là một khoảnh khắc
lịch sử.
Mahavira, Phật, Lão Tử, tất
cả đều là những khoảnh khắc lịch sử. Qua họ vũ trụ đang đạt tới ngày càng cao
hơn và cao hơn, vũ trụ đang tiến tới cao trào.
Qua họ vũ trụ đã đạt tới;
qua bạn nó còn phải đạt tới. Vũ trụ là hiện tượng bao la: có thể là đầu tôi đã
chạm tới mái, chân tôi còn chưa nhận biết gì về điều đó cả. Có thể là chân tôi
sẽ cần thời gian dài để nhận ra rằng đầu tôi đã chạm tới mái. Và tôi là một
thân thể.
Cái toàn thể là một thân
thể. Trong Phật, trong Christ, trong Zarathustra, cái gì đó đã chạm tới cao
trào, nhưng trong bạn nó đang tụt lại xa đằng sau. Bạn thậm chí đã không nghe
thấy tin tức này; bạn không biết cái gì đã xảy ra. Nhưng dần dần, dần dần, vài
người sẽ thoát khỏi nhà tù của giấc ngủ. Và thế thì họ biết. Một ngày nào đó
toàn thể sự tồn tại sẽ trở nên chứng ngộ, bởi vì người chứng ngộ cứ cho việc
chứng ngộ của mình, tính duy nhất của mình, hương vị và hương thơm của mình cho
sự tồn tại.
Có một câu chuyện hay - nó
là chuyện thôi, nhưng rất có ý nghĩa. Nó không phải là sự kiện, trong tôn giáo
chúng ta chưa bao giờ lo nghĩ về sự kiện, trong tôn giáo sự kiện là hư cấu. Trong
tôn giáo chúng ta lo nghĩ về ý nghĩa của sự kiện, nhân tố giá trị, không về bản
thân sự kiện - do đó tôn giáo nói theo ngụ ngôn, chuyện kể, biểu dụ, ví dụ, ngụ
ý.
Chuyện xảy ra là Phật cuối
cùng đã đạt tới cổng của niết bàn. Trong hàng nghìn năm cổng và người giữ cổng
đã từng chờ đợi và chờ đợi và chờ đợi ông ấy. Ông ấy đã tới và tới, nhưng đến
cuối cùng tin tức đưa tới là bây giờ Phật đã đạt tới đó. Cổng đã mở và người
giữ cổng đón chào ông ấy, nhưng Phật nói: Đóng cổng lại đi, ta không vào đâu.
Người giữ cổng hỏi: Sao vậy? Ông đã vật lộn vất vả để đạt tới và bây giờ ông đã
đạt tới. Bây giờ tại sao ông bác bỏ? Chuyện kể rằng Phật nói: Ta không bác bỏ,
nhưng ta sẽ phải đợi các bạn đồng hành khác. Cho tới khi và chừng nào mọi người
còn chưa đi qua cánh cửa này ta sẽ phải đợi. Từ bi của ta không cho phép ta đi
một mình. Điều đó sẽ là quá ích kỉ. Và vì ta không có cái ta nào nữa, làm sao
ta có thể ích kỉ được?
Chuyện kể rằng Phật vẫn còn
đợi tất cả các bạn đồng hành. Bạn thậm chí có thể đã không nghe nói tới tin này
nhưng ông ấy vẫn đang đợi và đợi. Khi mọi người đã đi qua cổng rồi, ông ấy sẽ
đi - ông ấy sẽ là người cuối cùng.
Chuyện này là có nghĩa. Làm
sao một mình cái đầu đi vào nếu chân không được phép vào? Nếu chúng ta là một
đơn vị hữu cơ làm sao bộ phận có thể đi vào chứng ngộ và bỏ mọi cái khác ở sau?
Nếu chúng ta là đơn vị thực, đơn vị hữu cơ, thì tất nhiên Phật phải đợi rồi.
Ông ấy có thể đã trở nên chứng ngộ, ông ấy có thể đã đạt tới cửa, nhưng nếu tất
cả những người đang đi theo là một đơn vị hữu cơ, ông ấy phải đợi. Cái đầu đã
đạt tới, nhưng cái đầu phải đợi cái đuôi.
Khi người chứng ngộ tan
biến người đó cho hương thơm của mình cho toàn thể sự tồn tại. Bạn là người đã
chứng ngộ thêm chút ít bởi vì ông ấy. Mọi Phật đều thêm cái gì đó vào cho bạn. Bạn
không tỉnh táo, nhưng mọi Phật đã từng rót và rót sự giầu có của mình lên bạn.
Theo cả nghìn lẻ một cách sự tồn tại vẫn đang tích luỹ tốc độ, bởi vì mọi Phật
đều đem thành tựu của mình cho nó. Bạn là hoàn toàn khác bởi vì Jesus,
Zarathustra, Phật.
Do đó mới có thái độ biết
ơn sâu sắc của những người tôn giáo hướng tới thầy của họ, bởi vì không có Phật
họ sẽ không có khả năng.
Không có tôi bạn sẽ không ở
đây; không có các chư Phật trước ngay cả Phật cũng không có khả năng. Đó là dây
chuyền lớn, dây chuyền của sự tồn tại - và mọi thứ được móc nối với mọi thứ
khác. Nó là hình mẫu lớn, không cái gì tách rời.
Ngay cả Phật cũng bày tỏ
kính trọng của mình với chư Phật quá khứ. Ai đó hỏi ông ấy: Tại sao? Tại sao
thầy bày tỏ kính trọng? Thầy đã trở nên chứng ngộ; không ai cao hơn thầy. Thầy
đang bày tỏ kính trọng với ai? Phật nói: Bởi vì họ ta mới là điều ta đang là.
Không có họ thì khả năng này sẽ không có đó. Họ đã tạo ra chiếc thang, họ đã
trở thành các bậc thang, và ta đã tiến bộ qua họ. Họ là quá khứ của ta. Khoảnh
khắc này của chứng ngộ đã tới bởi vì toàn thể quá khứ.
Bạn là quá khứ - biết ơn
điều đó; bạn là tương lai nữa - hi vọng về nó đi. Bạn là mối nối. Trong bạn
toàn thể sự tồn tại đi qua chính khoảnh khắc này vào tương lai.
Câu hỏi thứ hai:
Thầy đã nói, với Gurdjieff
và Ouspensky, về bẩy kiểu người. Thầy nói rằng thầy hiện đang nghiên cứu qua
chúng tôi bẩy kiểu người này. Thầy có thể nêu cho chúng tôi các ví dụ về những
kiểu này, tâm lí của họ, và cách thầy phải làm việc với chúng tôi để giúp chúng
tôi đạt tới vị phật của mình?
Gurdjieff đã cho một phân
loại hay về người. Bất kì khi nào bất kì ai hỏi ông ấy về người, ông ấy lập tức
dừng lại và nói: Đừng hỏi về người. Trước hết nói cho ta con số. Người số một?
Người số hai? Người số ba? Người số bốn? Hay người số năm? Ông muốn nói tới
người nào khi ông nói người?
Ông ấy có bẩy 'người'. Và
ông ấy hoàn toàn đúng. Chẳng thể nói gì về người được bởi vì không cái gì tồn
tại như người. Vài người là người số một, vài người là người số hai, vài người
là người số ba.
Ba loại người đầu tiên này
là đơn giản để hiểu bởi vì bạn thuộc về họ. Người sống trong thân thể là người
số một, bạn có thể thấy người đó ở mọi nơi. Người đó sống vì thân thể; người đó
không ăn để sống, người đó sống để ăn. Đó là số thứ nhất.
Số hai là kiểu xúc động;
người đó sống qua xúc động của mình - bao giờ cũng kích động hay thất vọng, đi
lên và xuống. Khi mọi người tới tôi và tôi hỏi họ mọi sự xảy ra thế nào họ nói,
'Hết lên lại xuống.' Người số hai đấy. Đôi khi người đó cảm thấy rất, rất thoải
mái, phởn phơ, và đôi khi người đó đờ đẫn như chết; đôi khi người đó trong địa
ngục và đôi khi trên cõi trời; đôi khi cười rất vui và đôi khi khóc.
Kiểu người thứ hai này cũng
sẵn có ở mọi nơi. Bạn không cần đi xa lắm đâu, người đó có thể ở bên trong bạn
đấy.
Tôi mới đọc một cuốn từ
điển - tôi thích từ điển bởi vì tôi thích từ và lí lịch của nó - và tôi bắt gặp
từ 'uỷ mị - maudlin'. Đó là kiểu người thứ hai: xúc động, bao giờ cũng sẵn sàng
kêu và khóc, đa cảm.
Tôi nhìn vào từ nguyên của
từ này, nó bắt nguồn từ đâu, và thực sự đó là một khám phá. Nó bắt nguồn từ
'Mary Magdalene'. Bạn phải đã thấy các bức tranh của Mary Magdalene rửa chân
Jesus bằng nước mắt của cô ấy - kêu và khóc, mắt đỏ. 'Magdalene' dần dần trở
thành 'maudlin'. Đó là kiểu người thứ hai.
Kiểu người thứ ba là kiểu
trí tuệ. Người đó sống qua trí tuệ của mình. Người đó chỉ là cái đầu; người đó
không có thân thể, người đó không có trái tim. Người đó là người kiểm soát lớn
từ cái đầu. Người đó cứ thao túng trái tim và thân thể mình và mọi thứ qua cái
đầu; người đó là học giả, người khổ hạnh, bác học, con người của tri thức, kí
ức, logic, triết lí. Kiểu người thứ ba này kiểm soát toàn thế giới.
Nhưng các kiểu này đều ở
cùng một mức - mức của họ không khác nhau. Ba kiểu người này sẵn có ở mọi nơi:
kiểu thứ ba tồn tại nhiều như nam tính, kiểu thứ hai tồn tại nhiều như nữ tính,
kiểu thứ nhất tồn tại như cả hai. Và ba kiểu này cũng là bạn - bạn không thể
tìm thấy họ trong sự thuần khiết, họ bị trộn lẫn, mớ hẩu lốn. Ba kiểu này bạn
không thể tìm thấy trong sự thuần khiết.
Nếu bạn có thể tìm thấy một
người có ba điều này tuyệt đối tách biệt, người đó là kiểu người thứ tư: nhà
yoga, thầy tu, nhà huyền môn. Người đó đã tách rời bản thể mình thành các tầng
khác nhau. Bây giờ, khi người đó còn trong thân thể, người đó là trong thân
thể, người đó không cho phép xúc động can thiệp vào nó hay cái đầu kiểm soát
nó. Khi người đó trong xúc động của mình, người đó không cho phép cái đầu hay
thân thể can thiệp vào nó. Người đó không phải là sự trộn lẫn, người đó không bị
pha trộn; mọi thứ đều sạch sẽ và rõ ràng trong người đó. Bạn có thể tin cậy vào
người đó. Khi người đó nghĩ thì người đó nghĩ, người đó không cho phép xúc động
của mình can thiệp vào - bởi vì xúc động trở thành mây. Chúng không cho phép
nghĩ rõ ràng.
Đó là lí do tại sao đàn bà
không thể nghĩ được rõ ràng như đàn ông. Họ thuộc nhiều vào kiểu thứ hai, họ
thuộc vào Mary Magdalene, bởi vì họ có nhiều xúc động thế. Tôi chưa bao giờ bắt
gặp người đàn bà mà tôi có thể nói là thông minh. Điều đó gần như là không thể
được bởi vì bất kì cái gì cô ấy nghĩ... thực tế cô ấy chả bao giờ nghĩ, chính
xúc động của cô ấy tạo ra hiện tượng suy nghĩ. Sâu bên dưới là xúc động. Cô ấy
'xúc động hoá', và lí trí đơn giản theo sau như cái bóng.
Cô ấy chưa bao giờ vô tư,
chưa bao giờ. Cô ấy không thể chỉ là người quan sát, người phán xử, khán giả,
không. Cô ấy sẽ bị tham gia vào. Đàn ông có thể là người quan sát. Đó là lí do
tại sao nhiều nhà khoa học, nhiều triết gia, nhiều nhà logic là đàn ông. Ngoại
trừ Bà Curie, đàn bà không tạo ra cái gì cả. Và tôi ngờ rằng Bà Curie phải đã
có nhiều hooc môn nam tính hơn các đàn bà khác.
Một ngày nào đó nghiên cứu
phải được tiến hành về hooc môn. Indira Gandhi phải có hooc môn nam tính nhiều
hơn Morarji Desai. Người ta phải không bị lừa bởi hình tướng.
Ba tầng này là trên cùng
mặt đất. Họ không giống như các tầng, cái nọ chồng lên trên cái kia. Họ là
những phân chia trên cùng mặt bằng, và họ đã bị trộn lẫn. Họ phải được phân
tách ra.
Kiểu thứ tư là người đã
phân tách bản thể mình ra, người đã cho từng trung tâm công việc riêng của
chúng. Chừng nào người đó còn chưa làm điều này, mọi thứ vẫn còn bị trộn lẫn và
chẳng cái gì vận hành tốt.
Trung tâm dục của bạn là
trung tâm thân thể. Bạn có thể rơi vào tình yêu với người đàn bà nhưng bạn là
một brahmin còn cô ấy là một sudra, một tiện dân. Xúc động không biết ai là
brahmin và ai là tiện dân.
Người Hindu có thể rơi vào
tình yêu với người đàn bà Mô ha mét giáo. Bây giờ, xúc động không biết nhưng lí
trí biết rằng cô ấy là tiện dân. Thân thể chẳng biết gì, xúc động không có tính
hợp lí, nhưng tâm trí lập luận từ đó ra. Và tâm trí sẽ lập tức can thiệp. Nó sẽ
nói: Nhìn đâu đó khác xem. Người đàn bà này không dành cho mình. Cô ấy là người
Mô ha mét giáo còn mình là người Hindu. Làm sao mình có thể cưới đàn bà Mô ha
mét giáo được? Hay, cô ấy nghèo thế còn mình giầu thế. Làm sao mình có thể lấy
người đàn bàn nghèo thế được? Mọi người sẽ nói gì?
Cái đầu can thiệp vào xúc
động. Bây giờ bạn kìm nén nó và bạn cố rơi vào tình yêu với người đàn bà là
người Brahmin của đẳng cấp riêng của bạn. Không ai có thể rơi vào tình yêu bằng
nỗ lực được. Với nỗ lực ép buộc nó nhiều nhất có thể là hôn nhân, chưa bao giờ
là chuyện tình. Nó bao giờ cũng bất lực, nó không có sự mãnh liệt đó.
Bạn liên tục can thiệp.
Thân thể nói: 'Tôi đói,' nhưng bạn nói: 'Đây chưa phải lúc.' Khi thân thể nói:
'Tôi không đói,' bạn cứ ép buộc thức ăn đưa vào trong nó bởi vì bạn nói: 'Đây
là giờ ăn trưa và mình không có thời gian khác cho nên đây là lúc và mình phải
ăn.'
Gurdjieff hay nói rằng tất
cả ba trung tâm này bị trộn lẫn và đó là lí do tại sao bạn bị lẫn lộn thế.
Không sáng tỏ nào tồn tại
trong bạn. Mọi thứ đều là lẫn lộn và khói. Không ngọn lửa nào tồn tại trong
bạn. Cho nên điều đầu tiên Gurdjieff hay làm là đem từng trung tâm tới vận hành
riêng của nó.
Dừng xâm lấn lại. Để thân
thể vận hành như thân thể; để xúc động vận hành như xúc động; và để cái đầu vận
hành như cái đầu. Và không cho phép chúng can thiệp lẫn nhau, bằng không bạn sẽ
là người hẩu lốn, bạn sẽ không có trung tâm. Thế thì bạn sẽ sống trong lẫn lộn
và bạn sẽ chết trong lẫn lộn. Bạn sẽ là phí hoài cực kì.
Kiểu người thứ tư đi vào sự
tồn tại khi các trung tâm bắt đầu vận hành trong lãnh thổ riêng của chúng và
chúng không xâm lấn. Điều này cần nỗ lực lâu dài.
Kiểu người thứ tư sẽ là
hiếm để bạn tìm ra, nhưng trong một số nhà yoga và trong một số nhà huyền môn
Sufi bạn có thể tìm thấy kiểu người thứ tư. Dầu vậy kiểu thứ tư vẫn tồn tại.
Kiểu thứ năm còn hiếm hơn.
Kiểu thứ tư sắp xếp ra ba mức, ba tầng, và làm cho chúng vận hành tương ứng với
bản chất nguyên thuỷ của chúng mà không có can thiệp, không có chi phối bên
ngoài. Người kiểu thứ năm trở nên nhận biết về nó. Người kiểu thứ tư có thể làm
việc với nhận biết, người kiểu thứ tư có thể làm việc qua thầy giáo, hay qua kỉ
luật, hay qua phương pháp luận và phân loại chúng ra. Nhiều nhận biết không
được cần tới, chút ít hiểu biết sẽ có tác dụng.
Kiểu người thứ năm là con
người của nhận biết. Người đó trở thành nhận biết về toàn thể hiện tượng này -
ba trung tâm khác nhau và nỗ lực của cái thứ tư để đem chúng về lãnh thổ riêng
của chúng. Kiểu thứ năm trở thành người quan sát, người chứng kiến. Rất hiếm
khi tìm ra một người thuộc phân loại thứ năm.
Ouspensky, đại đệ tử của
Gurdjieff, thuộc vào phân loại thứ năm này. Nhưng ông ấy chỉ nhận biết - nhận biết
đôi khi sẽ có đó và đôi khi sẽ bị mất. Ông ấy không thể thường xuyên nhận biết
được bởi vì để nhận biết thường xuyên, cần có một trung tâm tích hợp, cái bị
thiếu ở kiểu người thứ năm. Đó là lí do tại sao Ouspensky đi lạc lối. Ông ấy đã
trở nên nhận biết, nhưng ông ấy không có trung tâm tích hợp trong ông ấy, cho
nên ông ấy chỉ thỉnh thoảng mới nhận biết. Khi ông ấy nhận biết, ông ấy là một
người, nhưng khi ông ấy không nhận biết ông ấy là một người hoàn toàn khác. Ông
ấy trở thành thầy giáo tốt nhưng ông ấy không thể trở thành thầy được bởi vì
thầy cần nhận biết toàn bộ, nhận biết hai mươi tư giờ, ngay cả trong giấc ngủ.
Kiểu người thứ sáu là rất,
rất hiếm. Hàng thế kỉ trôi qua, thế rồi người kiểu thứ sáu trở nên sẵn có.
Người kiểu thứ sáu là người không chỉ nhận biết mà còn là người đã trở nên được
định tâm, người đã đạt tới trung tâm của mình. Người kiểu thứ năm quan sát;
người kiểu thứ sáu quan sát từ một trung tâm vĩnh hằng: người đó đã đạt tới toà
tháp bên trong. Và nhận biết của người đó không bao giờ chập chờn, ngọn lửa bên
trong của người đó vẫn còn không chập chờn.
Và thế rồi có kiểu người
thứ bẩy mà về người đó chẳng thể nói được gì cả. Mãi cho tới kiểu thứ sáu, mô
tả còn là có thể nhưng với kiểu thứ bẩy thì không có mô tả. Bạn phải ở gần kiểu
thứ bẩy để biết người đó là gì. Và bạn càng biết về người đó, bạn càng ít biết
hơn. Bạn càng biết nhiều hơn, bạn sẽ cảm thấy rằng nhiều điều nữa vẫn còn bỏ
lại để được biết.
Kiểu người thứ bẩy là tuyệt
đối huyền bí, bình thường một cách phi thường. Đơn giản, nhưng huyền bí nhất có
thể được. Một Phật, một Lão Tử, một Gurdjieff, họ là kiểu người thứ bẩy. Nhưng
về họ chẳng thể nói được gì.
Những người thuộc vào ba
phân loại đầu gần như giống nhau. Những người thuộc về phân loại bốn sẽ ít
nhiều giống nhau. Những người thuộc về phân loại bốn sẽ khác với ba phân loại
đầu, nhưng họ sẽ không khác nhau nhiều lắm. Các nhà yoga, thầy tu, là rất khác
với ba phân loại đầu, nhưng rất tương tự với nhau. Người thuộc phân loại thứ
năm bắt đầu trở thành duy nhất, người đó trở thành cái gì đó hiếm hoi. Bạn sẽ
thấy rằng hai người của phân loại thứ năm là khác nhau có thể được. Kiểu người
thứ sáu là tuyệt đối được tích hợp. Người đó đã trở thành tuyệt đối duy nhất.
Và với phân loại thứ bẩy
tất cả các khả năng của tính duy nhất đều đã được đạt tới. Nó là đỉnh cao nhất,
không định nghĩa được và không thể biết được qua trí tuệ. Chỉ duy nhất có một
cách biết tới kiểu thứ bẩy, người Hindu gọi nó là satsang. Đó là ở trong sự
hiện diện của kiểu người đó.
Nếu bạn may mắn tìm ra kiểu
người thứ bẩy, cho phép bản thể của người đó thấm vào bản thể bạn - trở thành
đầu nhận. Và thế thì bạn sẽ đi tới cảm thấy cái đang đó. Đó là kim cương bản
thể vĩ đại nhất trên thế giới.
Câu hỏi thứ ba:
Tôi ngạc nhiên về mầu sắc.
Không bắt đầu, không kết thúc nhưng trống rỗng. Về mầu da cam, mầu của mặt
trời, và sannyasins thì sao?
Sannyasin là trò chơi tối
thượng - cuối cùng, chung cuộc. Bên ngoài nó không có trò chơi. Nó phải rất mầu
sắc. Người chủ hộ, grihastha, chơi trò chơi nhưng nó trong đen trắng thôi. Nghèo
nàn. Sannyasin đang chơi trò chơi nhưng không trong đen trắng. Nó mang mầu sắc.
Sannyasin phải trở thành cầu vồng bởi vì khoảnh khắc bạn biết rằng mọi thứ là
trống rỗng, mọi thứ trở thành có thể; bởi vì cái trống rỗng đó có tất cả trong
nó.
Với tôi, tính chất sannyas
không phải là từ bỏ chống lại mê đắm. Không. Nó là từ bỏ trong mê đắm. Tính
chất sannyas là không rời bỏ thế giới; nó là sống trong thế giới dường như bạn
ở ngoài thế giới - đó là hiện tượng 'dường như'. Bạn sống trong thế giới nhưng
bạn không ở trong nó; bạn đi trong thế giới, nhưng đừng bao giờ, đừng bao giờ
bạn lấy một bước đi vào trong nó; bạn còn trong thế giới nhưng bạn không cho
phép thế giới vào trong bạn.
Người Hindu gọi điều đó là
hiện tượng hoa sen - hoa sen vẫn còn trong nước nhưng không bị động chạm tới.
Buổi sáng đi và xem hoa sen. Trong đêm giọt sương đã tụ lại trên cánh hoa,
chúng trông đẹp thế trong ánh mặt trời buổi sáng. Ngọc đấy. Nhưng bạn có thể
nhìn và thấy rằng chúng ở trên cánh hoa, chúng không vậy đâu, bởi vì chúng chưa
bao giờ chạm vào cánh hoa ở bất kì chỗ nào. Gần thế và xa xôi thế, chạm nhưng
không chạm, chỉ một làn gió nhẹ, và chúng rơi đi. Cánh hoa không níu bám chúng,
chúng không thể níu bám vào cánh hoa được.
Một sannyasin sống như hoa
sen trong thế giới. Người đó không níu bám vào cái gì, người đó không có níu
bám. Người đó tận hưởng; thực tế, chỉ người đó tận hưởng. Chỉ người đó có thể
tận hưởng, bởi vì không có gánh nặng nào của ham muốn, không có ám ảnh nào để
níu bám, không có cản trở nào. Người đó có thể mở hội, người đó có thể vui
thích, người đó có thể nhảy múa. Hân hoan của người đó là vô điều kiện.
Đó là lí do tại sao tôi gọi
tính chất sannyas là trò chơi cuối cùng: trên ngoại vi nó có vẻ nghiêm chỉnh,
nhưng ở trung tâm nó là tiếng cười sâu sắc. Các sannyasin của tôi là người
không nghiêm chỉnh - không phải họ không chân thành; họ không nghiêm chỉnh.
Thực tế, người chân thành không bao giờ nghiêm chỉnh. Tính nghiêm chỉnh là điều
lừa dối, tính nghiêm chỉnh cho bạn cảm giác về sự chân thành mà không có đó.
Người chân thành có thể cười và vẫn còn chân thành; người nghiêm chỉnh không
thể cười được bởi vì nếu người đó cười tính nghiêm chỉnh bị phá vỡ. Chân thành
không bao giờ bị phá vỡ, nó là đích thực; nghiêm chỉnh chỉ là cái mặt, mặt nạ.
Các sannyasin của tôi là
không nghiêm chỉnh. Đó là toàn thể vấn đề cần được hiểu. Tất cả các kiểu
sannyasin khác đều nghiêm chỉnh, họ không có tiếng cười bên trong họ. Họ sợ thế
giới; thực tế, họ là kẻ hèn nhát, kẻ trốn chạy. Nếu thế giới thực sự là ảo
tưởng, thế thì sao phải trốn khỏi nó? Nếu thực tế bạn đã nhận ra rằng toàn thế
giới là maya thế thì bạn đi đâu và để làm gì? Không ai đã bao giờ từ bỏ giấc
mơ. Làm sao bạn có thể từ bỏ được cái gì đó mà nó không có đấy? Khi bạn từ bỏ
thế giới bạn đang ở trong thực tại của nó quá nhiều. Bạn có thể gọi nó là maya,
ảo tưởng, nhưng bạn không hiểu điều bạn đang nói. Bạn gọi nó là ảo tưởng chỉ để
an ủi bản thân mình rằng bạn đã không bỏ thực tại - nó đã là ảo tưởng. Nhưng
những an ủi này chẳng có tác dụng. Bạn biết nó là thực. Bằng không tại sao bạn
đã bỏ nó?
Với tôi tính chất sannyas
là việc thức tỉnh, không phải là trốn chạy. Nó là nhận biết về toàn thể hiện
tượng cuộc sống - rằng đó là trò chơi.
Nếu nó là trò chơi, chơi nó
hay vào, có vậy thôi. Chơi nó hay vào, và trong khi nó còn kéo dài, tận hưởng
nó. Đừng níu bám lấy nó, bởi vì nó là trò chơi; đừng phát điên vì nó, bởi vì nó
là trò chơi. Và khi bạn hiểu rằng nó là trò chơi, sao không để nó có mầu sắc?
Đỏ là mầu cơ bản. Trong tự
nhiên chỉ hai mầu tồn tại: đỏ và lục. Chúng là các mầu cơ bản. Người Hindu đã
chọn mầu đỏ, người Mô ha mét giáo đã chọn mầu lục. Chỉ hai mầu cơ bản tồn tại.
Mọi cây đều mầu lục và mọi
hoa đều mầu đỏ.
Khi tôi nghĩ tôi sẽ cho các
sannyasin của tôi mầu gì, mầu lục cũng là kẻ cạnh tranh, mầu lục cũng là ứng cử
viên. Nhưng thế rồi tôi quyết định chọn mầu đỏ, bởi vì trong mầu đỏ mầu lục
được bao hàm, nhưng trong mầu lục mầu đỏ không được bao hàm.
Tôi sẽ phải giải thích điều
đó cho bạn: cây có thể tồn tại không có hoa, nhưng hoa không thể tồn tại mà
không có cây. Trong mọi hoa toàn thể cây đều được tham dự vào. Cho nên đằng sau
mầu đỏ của tôi có mầu lục; đằng sau tất cả giáo huấn của tôi - cho dù phát biểu
có tính Hin du - Mô ha mét giáo được che giấu. Cho nên tôi nói về Upanishad và
tôi cho ví dụ từ Sufi; tôi cho bạn thiền - ba bước của thiền tới từ thế giới
Hindu và một bước tới từ thế giới Mô ha mét giáo.
Tôi cho bạn mật chú 'hoo'.
'Hoo' chỉ là phần cuối cùng của 'Allah-hoo'. Nếu bạn nhẩm 'Allah, Allah, Allah,
Allah, Allah' liên tục bạn sẽ bắt đầu nhẩm 'Allah-hoo, Allah-hoo, Allah-hoo'.
Thế rồi dần dần phần 'Allah' rơi đi và chỉ âm 'hoo, hoo, hoo' còn lại, và toàn
thể bản thể được rót đầy bằng nó.
Tôi đã chọn mầu đỏ bởi vì
đỏ là đỉnh cao của toàn thể cây, đỏ là việc nở hoa, điều cuối cùng. Bạn không
thể đánh bại người Hindu được: tất nhiên họ là người đầu tiên trong thế giới
tôn giáo. Họ đã chọn cái tốt nhất, họ đã không bỏ cái gì đằng sau - họ đã chọn
mầu đỏ.
Đỏ là hoa. Đỏ là máu. Đỏ là
mặt trời. Từ mọi nơi mầu đỏ bao quanh bạn, và trong mầu đỏ mọi thứ được bao hàm,
được hàm chứa, bởi vì nó là việc nở hoa.
Để cuộc sống của bạn mang
mầu sắc đi, tôi không muốn bạn trở thành không mầu. Không. Tôi muốn bạn trở
thành như cầu vồng, tất cả bẩy mầu. Và khi tất cả bẩy mầu có đó, sẽ tới một
khoảnh khắc khi chúng gặp gỡ và trở thành một. Đó là ánh sáng trắng. Đây là
phép màu - ánh sáng trắng có thể được phân chia thành bẩy mầu; và bẩy mầu của
cầu vồng nếu chúng gặp gỡ cùng nhau, nếu giả kim thuật xảy ra, trở thành trắng.
Khi tất cả bẩy mầu gặp gỡ chúng trở thành trắng, và khi tất cả bẩy kiểu người
gặp gỡ họ trở thành trắng - chỉ là ánh sáng trắng, và không cái gì còn lại.
Chơi trò chơi cho hay như
bạn có thể chơi; nhưng nó là trò chơi thôi - đừng bị nghiêm chỉnh về nó. Và cho
dù cái gì đó nghiêm chỉnh là cần, cứ để nó là trò chơi đi, không gì hơn cả. Đôi
khi nó được cần tới. Nó cho hương vị của cuộc sống. Đôi khi bạn cần nghiêm
chỉnh nữa. Thì nghiêm chỉnh, nhưng đừng bao giờ trở thành nghiêm chỉnh, để cho
điều đó cũng là trò chơi. Để mọi thứ là trò chơi.
Và tính chất sannyas là trò
chơi cuối cùng. Bên ngoài nó, toàn thế giới trò chơi biến mất. Thế thì có thực
tại. Cho nên đây chỉ là điều cuối cùng bạn sắp làm. Làm nó hoàn hảo nhất có thể
được - vui thích trong nó, nhảy múa trong nó, để nó là việc hát sâu sắc, niềm
hân hoan.
Câu hỏi thứ tư:
Qua nhiều năm tôi đã có câu
chuyện dài với chiếc trống - và đã gặp nhiều anh và chị những người đã rơi vào
thiền qua trống. Tại sao những người múa yêu thích trống? Trong vở kịch Noh của
Nhật Bản có câu chuyện về chiếc trống. Xin thầy soi sáng vào vở kịch nhỏ này?
Gần hai nghìn năm trước ở
Trung Quốc, một người đàn bà đã mơ rằng một chiếc trống kì diệu rơi xuống từ
trên trời - đêm đó cô ấy thụ thai. Cô ấy sinh ra một đứa con trai và đặt tên
cho nó là Tenko, có nghĩa là trống trời. Vài năm sau một trống đã rơi từ trên
trời xuống, và bất kì khi nào Tenko đánh nó, nó đều phát ra nhạc du dương.
Hoàng đế đòi chiếc trống,
nhưng Tenko đem nó vào trong rừng sâu và giấu đi. Tenko bị bắt và bị dìm chết.
Chiếc trống được đem về cung điện của hoàng đế nhưng nó không tạo ra âm thanh
nào. Bố của Tenko tới cung điện và chạm vào trống, và nó lại hát lên. Hoàng đế
hối hận và ban lễ tưởng niệm cho người con. Linh hồn của Tenko hiện ra và nhảy
múa với lòng biết ơn về lời cầu nguyện của họ.
Trống có sức lôi cuốn đặc
biệt - lí do có gốc rễ rất sâu. Bạn sẽ phải hiểu nó.
Khi đứa trẻ được thụ thai
trong bụng mẹ, đứa trẻ lớn lên, nhưng nó không thể thở được, nó phải thở từ
người mẹ. Thực tế, người mẹ thở cho nó. Và trong chín tháng liên tục nó nghe
tiếng nhịp tim đập của người mẹ - liên tục. Đó là gặp gỡ đầu tiên với âm nhạc
và nhịp điệu.
Trong chín tháng đứa trẻ cứ
nghe nhịp tim đập của người mẹ. Đó là trống đầu tiên nó đương đầu, và điều đó
trở thành bắt rễ rất sâu trong bản thể của đứa trẻ. Mọi lỗ chân lông của nó đều
được rót đầy với điều đó, mọi thớ thịt của thân thể nó đều rung động cùng điều
đó, nó không có cuộc sống nào ngoài trừ tim của người mẹ. Và có việc đập liên
tục trong chín tháng... bạn cứ nghĩ về điều đó mà xem.
Và thế rồi đứa trẻ được
sinh ra. Toàn thể hệ thống thân thể, hệ thống tâm trí, đều mang mong muốn về
cái đập, về nhịp điệu của tim người mẹ. Và người mẹ biết, có chủ ý hay không
chủ ý, rằng bất kì khi nào đứa con bất ổn, khóc, kêu, không kiểm soát được, họ
phải đưa đầu đứa bé vào ngực mình, và lập tức đứa trẻ đi vào giấc ngủ, rơi vào
trong giấc ngủ. Khi nó lại nghe thấy tiếng đập - tiếng đập gây buồn ngủ - nó
lập tức rơi vào giấc ngủ.
Và không chỉ trẻ nhỏ - ngay
cả thanh niên, khi người đó nghỉ trên trái tim người đàn bà, rơi ngay vào trong
giấc ngủ, bởi vì người đàn bà trở thành người mẹ và người yêu, người chồng, trở
thành đứa trẻ. Trái tim cứ có sự hấp dẫn.
Nếu bạn không cảm thấy rằng
giấc ngủ sẽ tới, nhắm mắt lại, tắt đèn, và nghe tiếng đồng hồ, tic, tic,
tic.... Điều đó sẽ có tác dụng, không cần thuốc an thần nào bởi vì nó gần như
cho bạn cảm giác về tim của người mẹ. Căn phòng đóng kín, bụng mẹ đóng kín, và
thế rồi tiếng tích tắc của đồng hồ. Và bao giờ cũng chọn đồng mà thực sự cho
cảm giác 'trái tim' - đừng có âm thanh kim loại mà nhiều tính người hơn. Các
đồng hồ cổ thường theo cách đó; bây giờ chúng ta có đồng hồ hiệu quả hơn nhưng
chúng lại ít tính người hơn. Đồng hồ cổ trên tường là cái gì đó đẹp. Chúng tạo
ra bầu không khí.
Do đó, từ kinh nghiệm sinh
học sâu sắc này của đứa trẻ, mới đưa tới hấp dẫn của trống. Trống là nhạc cụ cổ
nhất, mọi thứ khác đã theo nó. Cho nên bất kì khi nào ai đó đánh trống, cám dỗ
là quá nhiều - bạn bắt đầu chuyển động chân, bạn bắt đầu đung đưa người. Nếu
người đánh trống giỏi và thực sự biết cách tạo ra bầu không khí qua tiếng trống
thì không ai có thể có đó mà không bị ảnh hưởng. Ngay cả một Phật cũng thích
nhảy múa. Điều đó là tự nhiên. Đó là lí do tại sao mọi người đều tận hưởng
tiếng trống. Và nó rất nguyên thuỷ, nó không phức tạp. Đi vào rừng rậm châu Phi
hay sâu trong rừng thẳm Ấn Độ nới chỉ các bộ lạc sống mà xem. Bạn sẽ thấy trống
ở mọi nơi.
Trống là nhạc cụ nguyên
thuỷ nhất. Khi bạn cảm thấy rằng trống đánh lên, thân thể bạn đáp ứng, đung
đưa, bạn bắt đầu rơi vào trong nhịp, di chuyển theo nhịp, và bỗng nhiên bạn đã
trở thành người nguyên thuỷ, người tự nhiên: mọi văn minh bị loại bỏ. Bạn không
còn ở đây trong thế kỉ hai mươi và tất cả những cái vô nghĩa đang diễn ra xung
quanh - bạn đã đi lùi lại gần mười nghìn năm.
Mới đêm hôm nọ, một
sannyasin Ethiopia của chúng ta, Neeraj, tới để trình diễn cho tôi vài điệu vũ
Ethiopia. Chúng thực hay. Anh ấy nhảy múa với nhịp rất nguyên thuỷ, rất, rất
nguyên thuỷ. Ethiopia là một trong những mảnh đất cổ nhất trên trái đất, nó là
đất nước của Solomon. Từ thời Solomon họ đã từng nhảy múa với nhịp nguyên thuỷ.
Nó có hấp dẫn sâu sắc. Không cần hiểu nó, thân thể bạn sẽ hiểu nó. Không ai có
thể hiểu bài ca đi theo nhịp nhưng mọi người đều hiểu nhịp. Đã có người Mĩ, đã
có người Anh, có người Ấn Độ và mọi người có thể theo nó. Ngôn ngữ của trống là
phổ quát.
Nó rất chất phác, đơn giản,
chẳng có gì nhiều cho nó, bất kì ai cũng có thể học nó. Thực tế, mọi người đều
đánh trống. Có chủ ý hay không chủ ý, nếu bạn ngồi cạnh bàn bạn bắt đầu đánh
nhịp; nếu bạn cảm thấy thoải mái, bạn bắt đầu đánh nhịp lên bàn. Nó là nguyên
thuỷ. Bản thể tự nhiên của bạn lại được gọi tới, và nó đáp ứng. Mọi thế kỉ của
văn minh biến mất trong một giây. Bỗng nhiên bạn lại dưới trời sao, bạn đã đi
lùi lại hàng nghìn năm. Mọi thứ là tự nhiên, tối, huyền bí. Đó là sự hấp dẫn.
Và người không đáp ứng với
tiếng trống và nhịp của nó là không có tim. Người đó thiếu cái gì đó. Người đó
đã trở thành nhựa hoàn toàn, mô hình thế kỉ hai mươi, tuyệt đối. Người đó đã
đánh mất mọi tiếp xúc với lịch sử, với quá khứ, với hàng nghìn năm đã trôi qua.
Trong tim người đó chẳng có gì của tự nhiên sống nữa; nó chết.
Và câu chuyện này cũng rất,
rất hay:
Gần hai nghìn năm trước ở
Trung Quốc, một người đàn bà đã mơ rằng một chiếc trống kì diệu rơi xuống từ
trên trời.
Tất nhiên, làm sao con người
có thể phát minh ra trống được? Một hiện tượng hay thế. Nó đã từng có lâu trên
thế gian này tới mức không ai có thể quán tưởng rằng đã có thời khi con người
có đó và trống lại chưa có. Cho nên Thượng đế phải đã tạo ra họ đồng thời. Có
thể là ngài đã tạo ra trống trước rồi con người sau, bởi vì lập tức con người
sẽ cần nhịp, rung động của nó. Bằng không làm sao con người sẽ sống được? Mọi
đứa trẻ đều tới sau; tim người mẹ đập nhịp trước.
Trái tim sẵn sàng đập và
tuôn chảy với tình yêu - và thế rồi tới đứa trẻ. Trống phải đã có trong sự tồn
tại trước khi con người được tạo ra.
Người ta không nói thế
trong chuyện Ki tô giáo về việc sáng tạo ra thế giới, bởi vì câu chuyện đó
không đầy đủ. Không câu chuyện sáng tạo nào đã bao giờ có thể đầy đủ. Câu
chuyện sáng tạo sẽ bao la như bản thân sự sáng tạo.
Câu chuyện này là biểu
tượng. Nó nói: Ở Trung Quốc một người đàn bà đã mơ rằng một chiếc trống kì diệu
rơi xuống từ trên trời. Tốt, hoàn toàn đúng. Con người không thể làm ra trống
được; nhịp đập là sinh học, nó đi trước con người.
Đêm đó cô ấy thụ thai. Bây
giờ con đường của câu chuyện này là tuyệt đối rõ ràng. Đầu tiên cô ấy mơ thấy
trống rơi từ trên trời, và thế rồi cô ấy thụ thai.
Cô ấy sinh ra một đứa con
trai và đặt tên cho nó là Tenko - trống trời. Vài năm sau một trống đã rơi từ
trên trời xuống, và bất kì khi nào Tenko đánh nó, nó đều phát ra nhạc du dương.
Con người là từ cõi trời và
trống là từ cõi trời. Nghĩa này là biểu tượng. Con người từ cõi trời và âm nhạc
từ cõi trời và bất kì khi nào bạn biết chìa khoá về cách mở cánh cửa của âm
nhạc, bạn cũng đã mở cánh cửa của cõi trời. Bí mật này nằm trong âm nhạc. Nếu
có chọn lựa giữa triết học, tôn giáo, khoa học và âm nhạc; nếu bạn bảo tôi chọn
một thứ, sau đó tất cả những thứ còn lại sẽ biến mất khỏi trái đất, tôi sẽ chọn
âm nhạc. Bởi vì nếu có âm nhạc, tôn giáo sẽ theo sau. Nó không thể biến mất
được.
Nếu có âm nhạc làm sao có
thể có chuyện tôn giáo có thể biến mất được? Âm nhạc sẽ cho cảm giác huyền bí
cho mọi người tới mức mọi người sẽ bắt đầu nghĩ về điều huyền bí này là gì. Nếu
âm nhạc có, triết học không thể biến mất được; nếu âm nhạc có, khoa học không
thể biến mất được; nếu âm nhạc có, văn học không thể biến mất được.
Nhưng có thể triết học có
đó, và không có âm nhạc. Nếu bạn chọn triết học, thế thì triết học sẽ có đó,
nhưng sẽ không có nhu cầu về âm nhạc phải có đó.
Âm nhạc là hiện tượng
nguyên thuỷ nhất bởi vì nó là trong tự nhiên, trong làn gió thoảng qua cây cối,
trong tiếng chim hót - bạn sẽ không bao giờ tìm thấy con chim là triết gia mà
mọi chim đều là nhạc sĩ. Bạn đi và tìm - bạn sẽ không thấy một dòng suối có
tính tôn giáo, mà mọi dòng suối đều có tính âm nhạc. Đi và hỏi những cơn gió
thoảng qua cây cối - chúng có thể chưa bao giờ nghe nói về Kinh Thánh và Koran
và Gita nhưng chúng biết âm nhạc. Âm nhạc được đưa vào trong bản thân cuộc
sống. Nó mang tính tồn tại.
Cho nên nếu có chọn lựa với
tôi, tôi sẽ chọn âm nhạc và bỏ tất cả các cái khác, bởi vì tôi biết chúng sẽ
phải quay lại. Âm nhạc bao la tới mức nó sẽ tạo ra tất cả chúng lần nữa. Âm
nhạc mang tính cõi trời.
Cô ấy sinh ra một đứa con
trai và đặt tên cho nó là Tenko - trống trời. Vài năm sau một trống đã rơi từ
trên trời xuống, và bất kì khi nào Tenko đánh nó, nó đều phát ra nhạc du dương.
Nếu bạn thực sự muốn đi vào
trong âm nhạc bạn sẽ phải đi sâu như âm nhạc. Âm nhạc là kỉ luật huyền môn lớn
lao nhất. Đạo Hồi đã phủ nhận âm nhạc hoàn toàn, và đó là lí do tại sao đạo Hồi
vẫn còn là tôn giáo què quặt. Làm sao có thể có tôn giáo mà không có âm nhạc
được? Nó sẽ rất nghèo nàn. Người Sufi lại làm sống lại nó, họ phải làm sống lại
nó. Đó là lí do tại sao người Hồi giáo bao giờ cũng đối kháng, thái độ đối
kháng sâu sắc với người Sufi, bởi vì họ đã làm sống lại âm nhạc sau khi người
Hồi giáo đã hoàn toàn phủ nhận nó.
Có một câu chuyện. Chuyện
xảy ra là một trong những hoàng đế Mogul, Aurangzeb - ông ta là người rất chính
thống, một người Mô ha mét giáo chính thống đến cuồng tín - rất chống đối âm
nhạc. Ông ta chống nhiều tới mức trong kinh đô, âm nhạc bắt đầu chết. Mọi người
đều sợ hát, hay nhảy múa, hay chơi nhạc cụ, bởi vì đó là tội phạm. Ông ấy đã
cấm nó bằng luật pháp.
Một hôm tất cả các nhạc sĩ
của kinh đô tụ tập lại cùng nhau, và họ đã tạo ra cuộc tuần hành phản đối. Họ
đi theo một arthi. Khi một người chết ở Ấn Độ cái xác chết được bó lại bằng tre
- nó được gọi là arthi - và thế rồi nó được đem ra nghĩa địa. Cho nên họ mang
một arthi của âm nhạc tới nghĩa địa. Đó là một đám rước lớn bởi vì kinh đô đầy
nhạc sĩ, và họ tất cả đều kêu khóc. Họ đã tạo ra nhiều ồn ào tới mức Aurangzeb
phải ra khỏi cung điện của mình để xem có chuyện gì, ai chết. Có hàng nghìn
người, nhạc sĩ và những người yêu mến họ và các đệ tử của họ, bởi vì ở Delhi
những ngày đó âm nhạc là hiện tượng vĩ đại. Họ tất cả đều đi theo, khóc lóc,
than vãn.
Aurangzeb bước ra và ông ta
hỏi: Có chuyện gì vậy? Ai chết, ai đó rất, rất quan trọng sao? Ta không nghe
thấy nói. Các nhạc sĩ nói: Tâu bệ hạ, âm nhạc đấy. Aurangajeb nói: Tốt, cũng
tốt là âm nhạc chết rồi. Bây giờ đi và chôn nó thật sâu vào để nó không thể
sống lại được nữa.
Đây đã là thái độ của người
Hồi giáo nhưng người Sufi lại làm sống lại nhảy múa và âm nhạc và mọi thứ, bởi
vì không tôn giáo nào có thể tồn tại mà không có âm nhạc. Người Mô ha mét giáo
cảm thấy bị tổn thương bởi sự kiện này. Họ ngờ rằng người Sufi bằng cách nào đó
là kẻ thù và họ cố giết người Sufi nhưng họ không thể làm được. Và điều mỉa mai
là ở chỗ là cốt lõi thực của đạo Hồi, họ là tôn giáo bản chất: thực tế, họ là
việc nở hoa.
Âm nhạc là chỗ mà tôn giáo
nảy sinh và phát triển và trưởng thành. Bất kì cái gì trưởng thành cũng đều cần
tới âm nhạc. Mọi lời cầu nguyện của bạn phải có tính nhạc, thiền của bạn phải
có tính nhạc, toàn thể bản thể bạn phải dần dần trở nên có tính nhạc.
Hoàng đế đòi chiếc trống,
nhưng Tenko đem nó vào trong rừng sâu và giấu đi. Tenko bị bắt và bị dìm chết.
Chiếc trống được đem về cung điện của hoàng đế nhưng nó không tạo ra âm thanh
nào.
Chiếc trống trong bản thân
nó sẽ không làm ra âm thanh nào, trống trong bản thân nó là cái không. Một trái
tim sống, trái tim yêu thương, phải được đem tới nó. Bạn phải đưa cuộc sống vào
trong nó, bạn phải được tham gia vào trong nó - chỉ thế thì nó mới tạo ra âm
thanh. Âm thanh đó là sự gặp gỡ của người với trống. Âm thanh không thể chỉ với
trống, nó không phải là thứ kĩ thuật. Hoàng đế có thể đã mời các nhà kĩ thuật,
nhưng âm nhạc là chuyện tình, nó không phải là công nghệ. Bạn có thể học kĩ
thuật và bạn có thể bỏ lỡ âm nhạc.
Nếu bạn yêu bạn có thể
không biết kĩ thuật nhưng bạn cần không lo nghĩ về nó - âm nhạc sẽ tới. Cuộc
sống đáp ứng với tình yêu; Thượng đế đáp ứng với tình yêu; và bất kì khi nào
bạn trở nên có tính kĩ thuật bạn bỏ lỡ cuộc sống và bạn bỏ lỡ Thượng đế. Bạn bỏ
lỡ tất cả những cái đẹp đẽ.
Bởi vì đó là triều đình của
hoàng đế nên tất nhiên phải có các nhà kĩ thuật - nhưng bạn không thể chiếm được
thành trì của âm nhạc bằng bạo hành. Bạn không thể hùng hổ với chân lí, với
tình yêu, bạn không thể tấn công vào nhà của Thượng đế. Không. Thế thì bạn sẽ
bỏ lỡ. Bạn phải đi với buông xuôi, bạn phải đi tới khiêm tốn ở đó.
Hoàng đế đòi chiếc trống,
nhưng Tenko đem nó vào trong rừng sâu và giấu đi. Tenko bị bắt và bị dìm chết.
Chiếc trống được đem về cung điện của hoàng đế nhưng nó không tạo ra âm thanh
nào.
Tình yêu sâu sắc được cần
tới. Bạn có thể đã thấy các nhạc sĩ Ấn Độ: trước khi họ bắt đầu chơi nhạc cụ họ
cúi lạy trước chúng. Điều đó có vẻ ngớ ngẩn với con mắt phương Tây. Họ đang làm
gì bằng việc cúi lạy nhạc cụ riêng của họ? Nó là linh thiêng. Nó là thiêng
liêng. Bạn phải xin phép nó: Bạn có cho tôi chơi trên bạn không? Tôi có được
chấp nhận không?
Tôi đã nghe nói về một nhạc
sĩ người thực tế đã hỏi cây đàn veena của mình: Tôi có được phép không? Và thế
rồi người đó sẽ chờ đợi. Và đôi khi chuyện xảy ra là người đó sẽ nói: Không.
Chiếc đàn veena không sẵn sàng. Vào khoảnh khắc này tôi không đủ thuần khiết.
Tôi sẽ phải đợi. Hôm nay tôi không thể chơi được.
Khó cho tâm trí phương Tây
hiểu. Bạn đang nói gì vậy? Đàn veena là nhạc cụ, chẳng cần hỏi han đâu. Bạn có
thể ép buộc, bạn có thể ra lệnh - nhưng ở đó bạn lỡ. Bạn có thể ép buộc, và sẽ
có một loại nhạc nào đó; nhưng nó sẽ không là đáp ứng, nó sẽ là phản ứng. Nếu
bạn đánh cây đàn veena vẫn sẽ là phản ứng, tất nhiên. Nhưng nó sẽ không là đáp
ứng. Phản ứng là hãm hiếp đàn bà; đáp ứng là đáp ứng của người yêu của bạn.
Chúng là khác toàn bộ.
Bố của Tenko tới cung điện
và chạm vào trống, và nó lại hát lên. Hoàng đế hối hận và ban lễ tưởng niệm cho
người con. Linh hồn của Tenko hiện ra và nhảy múa với lòng biết ơn về lời cầu
nguyện của họ.
Mọi người đã từng bạo hành
với cuộc sống sẽ hối hận. Đừng bạo hành với cuộc sống. Thuyết phục nó thôi.
Thuyết phục là cần thiết. Đừng hung hăng và bạo hành - bằng không mọi âm nhạc
sẽ biến mất.
Tôi sẽ kể cho bạn một câu
chuyện. Chuyện xảy ra là trong một ngôi nhà có một cây đàn veena rất cổ kính.
Trong hàng thế kỉ nó đều ở đó. Và qua nhiều thế hệ mọi người trong gia đình đã
dần dần hoàn toàn quên khuấy mất nó tồn tại để làm gì, chức năng của nó là gì.
Nó đã trở thành mối phiền toái trong ngôi nhà, bởi vì nó lớn thế và nó cần
không gian. Và không chỉ có thế, đôi khi trẻ con sẽ tới và chơi trên nó và
chúng sẽ quấy nhiễu an bình của toàn thể ngôi nhà. Đôi khi vào ban đêm mèo nhảy
lên nó, hay chuột chạy trên nó. Cho nên nó là mối phiền toái, bao giờ cũng tạo
ra tiếng động, quấy rối giấc ngủ, quấy rối mọi người trong nhà và hàng xóm.
Cuối cùng một hôm họ nghĩ:
Sao giữ nó mãi ở đây? Vứt quách nó đi. Mọi ngày chúng ta phải quét bụi và lau
sạch nó, còn nó vô dụng. Cho nên họ tới và ném nó ra ngoài nhà.
Một người ăn xin đi qua.
Anh ta thấy chiếc veena nằm đó và anh ta bắt đầu chơi trên nó. Nó tạo ra âm
nhạc thiêng liêng tới mức toàn thể hàng xóm tụ tập lại. Ngay cả những người đã
vứt nó cũng chạy ra khỏi nhà họ. Họ bị sửng sốt, bị thôi miên. Họ không thể tin
được rằng chiếc veena này có thể tạo ra âm nhạc hay thế, huyền bí thế. Nó đã tạo
ra một chỗ mà quanh đó tất cả giao thông đều dừng lại, nhà trống rỗng và bất kì
ai nghe thấy, đều tới. Toàn thể thị trấn tụ tập lại, và khi người ăn xin dừng
chơi, mọi người đã từng là chủ chiếc đàn veena này từ hàng thế kỉ nhảy lên
người đó và nói: Trả chiếc veena này lại cho chúng tôi, đây là của chúng tôi.
Người ăn xin nói: Chiếc
veena thuộc vào người có thể chơi trên nó. Nó không phải là tài sản. Nó là tình
yêu. Nếu các ông có thể chơi trên nó, thì chơi đi - thế thì nó thuộc vào các
ông. Nếu các ông không thể chơi trên nó được, đừng mang tính sở hữu - nó thuộc
về tôi. Tôi đã chờ đợi nó và chiếc đàn veena này đã chờ đợi tôi. Bây giờ chúng
tôi đã gặp nhau và bây giờ không ai có thể tách rời chúng tôi được. Nếu các ông
khăng khăng, các ông có thể lấy nó, nhưng nó sẽ là chiếc veena chết và tôi sẽ
là nhạc sĩ chết. Giữa hai chúng tôi cái gì đó gặp gỡ và quyện lẫn, giữa hai
chúng tôi cái gì đó trở thành một và hữu cơ. Tôi là một nửa, chiếc veena là một
nửa, và khi chúng tôi gặp gỡ chúng tôi trở thành một - thế thì âm nhạc có đó và
có tình yêu và có cuộc sống.
Câu hỏi cuối cùng:
Tôi thường cảm thấy năng
lượng của thầy chạy khắp qua tôi. Nó là rõ ràng khi tôi ở phương tây cũng như
khi tôi quay lại Ấn Độ. Vậy mà khi tôi ở đây tôi tự hỏi liệu cảm giác rằng thầy
đã từng ở cùng tôi có là tưởng tượng của tôi hay không.
Nếu nó là tưởng tượng của
bạn, vậy thì sao? Sao không tận hưởng nó? Cái gì sai trong tưởng tượng? Tưởng
tượng là thiêng liêng như bất kì cái gì khác. Nếu bạn cảm thấy hạnh phúc và
phúc lạc, tận hưởng nó đi. Để nó ở đó.
Đây là tâm trí cứ tạo ra
rắc rối. Lặp đi lặp lại, nếu mọi người cảm thấy thoải mái, nếu họ cảm thấy hay,
họ tới và hỏi: Chúng tôi lo nghĩ. Có thể nó chỉ là tưởng tượng thôi. Nhưng khi
họ khổ và khi họ đau, họ không bao giờ tới tôi và nói: Có thể đấy chỉ là tưởng
tượng rằng chúng tôi đang khổ.
Điều này là hay! Bạn nghiện
với khổ tới mức khổ bao giờ cũng thực, nhưng phúc lạc có vẻ đáng ngờ - nó có
thể là tưởng tượng.
Vậy thì sao? Nếu nó là
tưởng tượng, cứ để nó là tưởng tượng đi. Tận hưởng nó. Vui thích trong nó. Và
bao giờ cũng nhớ rằng tiêu chí về cái đúng là vui thích, lễ hội - không tồn tại
tiêu chí nào khác cho chân lí đối với tôi. Điều cho bạn an bình, điều cho bạn
phúc lạc, là thực. Bất kì cái gì cho bạn đau đớn, cái làm cho bạn khổ, đều là
không thực. Đó là tiêu chí duy nhất, không có tiêu chí khác.
Cho nên nếu bạn cảm thấy
hạnh phúc, đừng bị quấy rối bởi tâm trí. Tâm trí là kẻ đầu độc lớn, nó lập tức
tạo ra nghi ngờ rằng có gì đó sai. 'Mình - mà hạnh phúc sao? Không thể được!'
tâm trí nói với bạn, 'điều đó phải là không thực.'
Bạn đã sống trong nhiều khổ
sở trong thời gian dài tới mức khổ dường như là thực. Khi bạn đang trong khổ
không có hoài nghi gì về nó, bạn coi nó như sẵn có đó rồi, nó là thực. Khi bạn
cảm thấy phúc lạc ngay lập tức nghi ngờ nảy sinh: Mình và hạnh phúc sao? Không
thể được. Cái gì đó đã đi sai ở đâu đó.