Osho - Đạo: Ba Kho Báu (Tập 3)
Chương 1: Theo đuổi tri thức
Lão Tử nói:
Không ra khỏi cửa, biết
việc thiên hạ.
Không dòm ngoài cửa, thấy
được Đạo Trời.
Càng ra xa, càng biết ít.
Bởi vậy thánh nhân, không
đi mà biết,
Không thấy mà hiểu, không
làm mà nên.
Tôn giáo không phải là tri
thức, nó là việc biết. Tri thức là của tâm trí, việc biết là của bản thể, và
khác biệt này và khoảng cách này, là cực kì bao la.
Khác biệt không chỉ ở số
lượng, nó cũng ở chất lượng.
Tri thức và việc biết -
chúng khác nhau như cõi trời và địa ngục, đất và trời, cho nên điều đầu tiên
cần hiểu là khác biệt giữa tri thức và việc biết.
Tri thức không bao giờ của
hiện tại, nó bao giờ cũng của quá khứ. Khoảnh khắc bạn nói bạn biết nó đã thứ
chết rồi, nó đã để lại dấu vết của nó trong kí ức, nó giống như bụi bám vào
bạn. Bạn đã đi xa khỏi đó rồi.
Việc biết bao giờ cũng tức
khắc, việc biết là ở đây và bây giờ. Bạn không thể nói được gì về nó cả, bạn
chỉ có thể là nó. Khoảnh khắc bạn nói nó, ngay cả việc biết cũng trở thành tri
thức; đó là lí do tại sao tất cả những người đã biết, họ nói nó không thể được
nói ra. Khoảnh khắc bạn nói nó ra chính bản chất của nó thay đổi; nó đã trở
thành tri thức. Nó không còn là hiện tượng sống động đẹp đẽ của việc biết.
Việc biết không có quá khứ,
nó không có tương lai, nó chỉ có hiện tại. Và nhớ lấy, hiện tại không phải là
một phần của thời gian.
Mọi người thường nghĩ rằng
thời gian được chia ra giữa quá khứ, tương lai và hiện tại. Chúng tuyệt đối
sai. Thời gian được chia ra giữa quá khứ và tương lai, hiện tại không phải là
một phần của thời gian chút nào. Bạn không thể bắt giữ nó trong thời gian được.
Theo đuổi nó và bạn sẽ lỡ. Cố hiểu thấu nó và nó bao giờ cũng ở ngoài tầm với
của bạn, bởi vì nó là một phần của vĩnh hằng không phải là một phần của thời
gian.
Hiện tại là vĩnh hằng bắt
chéo qua thời gian. Nó là điểm gặp gỡ, nơi vĩnh hằng và tạm thời gặp gỡ.
Trong hiện tại là việc
biết, trong quá khứ là tri thức. Bất kì khi nào bạn biết, bạn bắt đầu lập kế
hoạch. Bạn càng biết nhiều, bạn càng lập kế hoạch nhiều. Biết nghĩa là quá khứ,
lập kế hoạch nghĩa là tương lai - thế thì bạn không cho phép tương lai được tự
do, bạn cố xếp nó vào trong tổ chim của quá khứ. Bạn sẽ muốn nó chỉ là lặp lại
của quá khứ.
Con người của tri thức là
con người của lập kế hoạch, và cuộc sống là luồng chảy không được lập kế hoạch.
Cuộc sống là tự do, bạn không thể xếp nó vào ngăn được, bạn không thể phân loại
nó được, đó là lí do tại sao con người của tri thức bỏ lỡ cuộc sống. Người đó
biết nhiều, và người đó chẳng biết gì. Người đó biết quá nhiều và người đó chỉ
trống rỗng và hổng hoác. Bạn không thể nào tìm thấy người nông cạn hơn con
người của tri thức. Người đó chỉ ở trên bề mặt và bề mặt, người đó không có
chiều sâu bởi vì chiều sâu tới qua cái vĩnh hằng.
Thời gian đi theo chiều
ngang, nó đi theo đường thẳng ở chân trời. Vĩnh hằng theo chiều đứng, nó đi vào
chiều sâu và chiều cao. Đó là nghĩa của cây thập tự của Jesus: thời gian bắt
chéo vĩnh hằng, hay vĩnh hằng bắt chéo thời gian. Tay của Jesus là thời gian,
chúng đi trong quá khứ và tương lai, bị đóng đinh vào thời gian, được phục sinh
trong vĩnh hằng. Bản thể ông ấy theo chiều đứng - bản thể của mọi người theo
chiều đứng, chỉ thân thể, tay, phần vật chất của bạn, là theo chiều ngang.
Tri thức tạo ra tương lai,
tương lai tạo ra lo nghĩ. Bạn càng biết nhiều, bạn càng lo nghĩ nhiều, bạn càng
không thoải mái hơn, chưa bao giờ dễ dàng, như ở nhà, run rẩy bên trong. Đó là
bệnh hoạn. Con người của hiểu biết là hoàn toàn khác - người đó sống ở đây.
Khoảnh khắc này là tất cả, cứ dường như ngày mai không tồn tại - và thực sự nó
không tồn tại, nó chưa bao giờ tồn tại, nó là một phần của trò chơi tâm trí. Nó
là giấc mơ của người tri thức.
Khoảnh khắc này là tất cả,
và toàn bộ. Việc biết đi vào trong khoảnh khắc này theo chiều đứng, đi sâu hơn
và sâu hơn và sâu hơn. Con người của việc biết có chiều sâu, cho dù trên bề mặt
người đó là cái không trừ phần chiều sâu. Người đó không có bề mặt nông cạn, bề
mặt của người đó cũng là một phần của chiều sâu. Còn con người của tri thức thì
sao? Người đó không có chiều sâu, chiều sâu của người đó cũng là một phần của
bề mặt của người đó.
Và đây là điều ngược đời:
rằng con người của việc biết thì biết còn con người của tri thức không biết,
không thể biết được, bởi vì tri thức không thể gặp gỡ được cuộc sống - đó là
rào chắn, ngược lại, chỉ là rào chắn, cản trở. Nó cũng giống thế này: người mẹ
biết rằng đứa con là của mình, người bố có tri thức rằng đứa con là của mình.
Người bố chỉ có niềm tin. Sâu bên dưới người bố không biết. Chỉ người mẹ biết!
Chuyện xảy ra, Mulla
Nasrudin làm việc như một tể tướng cho một vương quốc nhỏ. Nhà vua rất hào
phóng; không giầu lắm (vương quốc nhỏ thôi) nhưng dầu vậy vẫn rất hào phóng.
Mọi năm Nasrudin đều tới và bảo ông ấy rằng vợ mình đã sinh con, và nhà vua sẽ
ban tặng quà có giá trị cho ông ta, cho đứa con, cho người mẹ, nhưng thế thì
điều đó trở thành quá đáng vì đó là chuyện hàng năm.
Khi đứa con thứ mười hai
được sinh ra và Nasrudin tới, nhà vua nói, "Bây giờ Mulla, thế thì quá
nhiều, và thế giới đang bị nhân mãn, ông đang làm gì vậy? Nếu ông đi với tốc độ
này ông sẽ tạo ra một quốc gia nhỏ. Ông cứ tiếp tục, mọi năm - dừng nó lại đi!
Để đứa trẻ này là đứa cuối cùng! Và nếu ông không thể dừng được, nếu ông không
có khả năng dừng lại, thế thì tự tử còn tốt hơn làm cho thế gian quá nặng
gánh."
Nasrudin rất thất vọng. Thế
rồi đứa trẻ thứ mười ba được sinh ra - làm gì đây? Thế là ông ấy nghĩ, bây giờ
tốt hơn cả là không tới vua nữa - vào rừng và tự tử, như nhà vua đã nói. Thế là
ông ta đi vào rừng, ông ta chuẩn bị mọi thứ để treo cổ mình, chỉ một phần giây
nữa và ông ấy đã treo cổ lên cây và chết - bỗng nhiên ông ta nói,
"Nasrudin! Cẩn thận! Mình có thể treo cổ nhầm người!"
Người bố đơn giản tin,
người mẹ biết. Việc biết giống như người mẹ, tri thức giống như người bố.
Mọi tri thức đều là niềm
tin. Việc biết không phải là niềm tin, nó là việc biết. Nó là cảm nhận của bạn,
nó là tầm nhìn của bạn, nó là trưởng thành của bạn. Nó cũng giống như người mẹ
- đứa con lớn lên trong bụng mẹ, cô ấy biết, đứa con là một phần của cô ấy, mở
rộng riêng của cô ấy, con người riêng của cô ấy, máu và xương. Người bố là ở
ngoài, anh ta không phải là bản chất. Anh ta đơn giản tin rằng đứa trẻ là của
mình.
Con người của tri thức tin
rằng mình biết. Con người của việc biết thì biết.
Việc biết là biến đổi trong
bản thể bạn, nó giống như mang thai, bạn phải mang nó, bạn phải cho sinh thành
cho bản thân mình, phục sinh vào trong vĩnh hằng, quay đi khỏi thời gian và đi
vào vô thời gian, chuyển đổi từ tâm trí sang vô trí, nhưng cái gì đó mênh mông
tới mức bạn biết nó đang xảy ra trong mình.
Con người của tri thức cứ
thu thập bụi từ chư Phật. Những người đã biết, họ tin vào những người đó. Bất
kì điều gì người đó tin đều là chết. Người đó đã không cho sinh thành ra bản
thân mình. Người đó đã thu thập tri thức từ những người khác, mọi thứ đều vay
mượn, và làm sao tri thức có thể được vay mượn? Làm sao bản thể có thể được vay
mượn? Nếu tri thức mà đúng thì nó sẽ là của bản chất của bản thể.
George Gurdjieff hay hỏi
mọi người - những người tìm kiếm tới ông ấy - điều đầu tiên ông ấy hỏi là: Ông
quan tâm tới tri thức hay hiện hữu? Bởi vì ở đây chúng ta cho sự hiện hữu và
chúng ta không quan tâm về tri thức, cho nên ông quyết định cho rõ. Nếu ông
quan tâm tới tri thức, đi chỗ nào khác đi. Nếu ông quan tâm tới hiện hữu, ở lại
đây. Nhưng ra quyết định rất rất rõ ràng."
Khác biệt là gì giữa hiện
hữu và tri thức? Cùng điều đó cũng là khác biệt giữa tri thức và việc biết.
Việc biết là hiện hữu.
Nó không phải là cái gì đó
được thêm vào bạn, nó là cái gì đó bạn trưởng thành lên. Tri thức là cái gì đó
được thêm vào bạn. Bạn không trưởng thành qua nó, thay vì thế, bạn mang nó như
gánh nặng. Cho nên bạn bao giờ cũng thấy con người của tri thức bị nặng gánh,
nặng gánh lắm, hàng núi tri thức người đó đang mang trên vai mình. Bạn sẽ thấy
khuôn mặt của người đó rất nghiêm trang, nghiêm trang chết, và trái tim người
đó hoàn toàn bị nghiền nát dưới gánh nặng này.
Con người của việc biết là
vô trọng lượng. Người đó không mang gì cả. Người đó có thể bay trong bầu trời.
Sức hút của đất không ảnh hưởng tới người đó. Người đó không bị kéo xuống đất
bởi vì đất có chỉ có thể kéo thứ nặng. Người đó vẫn còn trên đất nhưng người đó
không thuộc vào đất. Đó là nghĩa của lời của Jesus - ông ấy nói đi nói lại:
Vương quốc của ta không phải là của thế giới này.... Nó là của thế giới khác
nào đó, thế giới của hiện hữu, thế giới của vĩnh hằng.
Nếu bạn hiểu phân biệt này
kĩ, thế thì nhớ đừng bao giờ đi trên con đường của tri thức. Đi trên con đường
của việc biết, hiện hữu, bởi vì chỉ thế thì bạn mới thu được cái gì đó: không
phải là bạn có nhiều thông tin hơn, mà bạn trở nên hiện hữu nhiều hơn, và đó là
điểm mấu chốt để được hiểu - bạn phải trở nên hiện hữu nhiều hơn.
Nghèo nàn của bạn không
phải là về thông tin, nghèo nàn của bạn là về hiện hữu. Bạn nghèo và bạn cứ che
giấu cái nghèo đó qua tích luỹ mọi thứ. Và tri thức cũng là một thứ: lời, lí
thuyết, triết lí, hệ thống, thượng đế học - mọi thứ; tinh vi, trừu tượng, nhưng
dầu vậy toàn là các thứ đồ. Bạn không trưởng thành, bạn vẫn còn như cũ, và bạn
tạo ra ảo tưởng quanh mình rằng bạn đã đi tới biết.
Những lời kinh này của Lão
Tử phải được hiểu trong ánh sáng này.
Không ra khỏi cửa, biết
việc thiên hạ.
Bởi vì sâu bên dưới bạn là
thế giới. Thế giới không là gì nhưng bạn là rộng lớn. Thực tế không cần đi đâu
để biết cái gì; nếu bạn biết bản thân mình bạn đã biết toàn thể nhân loại, nếu
bạn biết giận dữ của mình bạn đã biết mọi giận dữ, nếu bạn biết bạo hành của
mình bạn đã biết mọi cuộc chiến tranh; không có nhu cầu đi sang Việt Nam, không
cần đi tới Triều Tiên, không cần đi tới Palestine, hay bất kì chỗ nào, nếu bạn
biết bạo hành của mình bạn đã biết mọi bạo hành. Nếu bạn biết tình yêu của mình
bạn đã biết tất cả - toàn thể lịch sử của tình yêu; điều chưa bao giờ được viết
ra, điều chưa bao giờ được biết tới, ngay cả Cái đó bạn đã từng biết bởi vì bạn
là hạt mầm!
Nó cũng giống như lấy một
giọt nước từ đại dương; bạn phân tích giọt nước đó; bạn đã biết toàn thể đại
dương nếu bạn biết giọt nước đó bởi vì trong giọt nước nhỏ bé toàn thể đại
dương được cô đọng, nó là đại dương thu nhỏ. Nếu bạn phân tích giọt nước này và
đi tới biết rằng nó bao gồm H2O, bạn biết rằng toàn thể đại dương bao gồm H2O.
Bây giờ không cần tiếp tục làm mãi làm mãi, một giọt là đủ. Nếu bạn biết hương
vị của một giọt, rằng nó mặn, bạn biết rằng toàn thể đại dương là mặn - và giọt
đó là bạn.
Không ra khỏi cửa, biết
việc thiên hạ... Bởi vì bạn là thế giới, thế giới nguyên tử, và mọi thứ đang
xảy ra trong bạn. Nó có thể xảy ra trên qui mô bao la hơn trong thế giới, lượng
có thể nhiều hơn, nhưng chất là một.
Hiểu bản thân mình người ta
hiểu tất cả.
Có một câu chuyện hay trong
Upanishad: Một thanh niên, Swetaketu, trở về nhà từ nhà của thầy mình, từ
gurukul của mình, gia đình của guru của anh ta, có học, và tất nhiên, như thanh
niên nhất định là thế, rất tự hào về học hành của mình. Kiêu căng. Bản ngã. Bố
anh ta, nhà tiên tri Uddalak, ngóng nhìn anh ta về - anh ta đang tới, đi vào
làng, và bố anh ta ngắm anh ta từ cửa sổ. Người bố trở nên buồn: Đây không phải
là học! Nó đã trở thành con người của tri thức. Đây không phải là biết! Uddalak
nói với trái tim mình: Ta đã không cho nó đi vì điều này. Nó đã bỏ lỡ vấn đề
rồi! Nó đã phí thời gian! Bởi vì việc biết là khiêm tốn - không khiêm tốn theo
nghĩa nó đối lập với bản ngã, nó không liên quan tới bản ngã chút nào, thậm chí
không như cái đối lập, bởi vì ngay cả cái đối lập cũng mang cái gì đó của nó.
Cảm thấy rằng con mình
không khiêm tốn, người bố trở nên rất rất buồn.
Ông ấy trở nên già hơn, và ở
đây cậu trẻ này đã phí hoài nhiều năm cuộc đời mình - tại sao nó trông kiêu
căng thế? Việc biết bao giờ cũng làm cho bạn khiêm tốn.
Từ khiêm tốn này là hay. Nó
tới từ cùng gốc humus đất mùn, gốc mang nghĩa thực là đất, của đất, không khoe
khoang, và cùng gốc đó là cơ sở cho từ human - con người và humanity - nhân
loại. Bạn trở thành con người chỉ khi bạn trở nên khiêm tốn, bạn trở nên khiêm
tốn chỉ khi bạn là của đất - của đất theo nghĩa: không khoe khoang, đơn giản,
vô điều kiện, như đất.
Người con đi tới đây ngạo
mạn thế và kiêu căng thế, anh ta phải đã trở thành con người của tri thức - và
anh ta đã trở thành một người. Anh ta tới, anh ta chạm chân người bố, nhưng đó
chỉ là nghi lễ. Làm sao một người đã trở nên bản ngã thế cúi mình được?
Người bố nói,
"Swetaketu, ta thấy người con uốn xuống, nhưng con thì không. Và không may
gì đã xảy ra cho con? Tại sao con trông ngạo mạn thế? Con người của việc biết
trở nên khiêm tốn, Swetaketu. Con có nghe nói gì về Cái một, mà biết điều đó,
người ta biết tất cả không?"
Swetaketu nói: "Bố nói
về cái gì vậy? Làm sao người ta có thể biết được tất cả chỉ bởi biết cái một?
Ngớ ngẩn! Con đã biết tất cả những điều có thể được biết trong đại học, con đã
trở nên sâu sắc như người ta có thể trở nên trong mọi chủ đề được dạy ở đó. Con
đã vét cạn toàn thể khả năng của việc học. Khi thầy con nói với con: Bây giờ
con biết tất cả và con có thể về nhà, chỉ thế thì con mới về - nhưng về điều bố
nói, cái 'một' đó - con chưa bao giờ nghe nói về nó. Không ai đã nói về nó
trong đại học. Chúng con đã học văn phạm, ngôn ngữ, lịch sử, huyền học, triết
học, thượng đế học, tôn giáo, thơ ca - mọi thứ được biết cho con người con đã
học cả, và con đã trở nên thông thái, và con đã đạt tới bằng cấp cao nhất mà
đại học có thể ban cho, nhưng chúng con chưa bao giờ nghe nói về cái 'một' đó -
bố đang nói về cái gì vậy? Bố có điên không? Làm sao người ta có thể biết tất
cả bằng việc biết cái một?
Uddalak nói, "Đúng,
cái Một đó là con. Swetaketu, tat twam asi, cái đó là ngươi. Nếu con biết cái
Một này con sẽ biết tất cả, và tất cả những cái con đã biết chỉ là thứ vớ vẩn.
Con đã phí hoài năng lượng của mình. Quay lại đi! Đừng bao giờ về lại chừng nào
con còn chưa biết cái Một đó mà với việc biết cái đó tất cả mọi thứ đều được
biết. Bởi vì," Uddalak nói với con mình, "trong gia đình chúng ta
không người nào đã là người brahmin chỉ bởi cái tên. Chúng ta đã tự gọi bản
thân mình là brahmin bởi vì chúng ta đã biết tới Brahma. Con không thuộc vào
gia đình chúng ta nếu con không biết cái Một đó, quay lại đi!
Cái Một đó là bạn, cái đó
là ngươi. Một hạt mầm rất nhỏ, gần như vô hình với bản thân bạn. Chừng nào bạn
còn chưa tìm sâu, và tìm lâu, với kiên nhẫn và nhẫn nại, bạn sẽ không bắt gặp
nó đâu.
Hạt mầm đó ở bên trong bạn,
đó là cái bên trong của bạn, và toàn thể thế giới bao la không là gì ngoài bạn
được viết lên vải vẽ lớn. Con người là nhân loại. Bạn là thế giới.
Lão Tử nói:
Không ra khỏi cửa, biết
việc thiên hạ.
Không dòm ngoài cửa, thấy
được Đạo Trời.
Không cần nhìn ra khỏi cửa
sổ - cửa sổ là các giác quan của bạn: mắt, tai, mũi - đây là những cửa sổ,
không có nhu cầu nhìn từ những cửa sổ này.
Không dòm ngoài cửa, thấy được
Đạo Trời. Bạn có thể thấy điều tối thượng bên trong.
Bạn đã nhìn ảnh Phật chưa,
ngồi im lặng với mắt nhắm, bất động?
Có chuyện kể ở Ấn Độ về
những người vẫn còn trong thiền lâu tới mức chim tới định cư trên thân thể họ,
chúng làm tổ trong tóc họ, và kiến bò trên họ lâu tới mức kiến đó quên hoàn
toàn rằng 'một người ngồi ở đây.' Chúng bắt đầu sống ở đó.
Những người này đã làm gì?
Cây leo bò lên thân thể họ cứ tưởng đó là cột chống tốt. Bất động thế, họ đang
làm gì ở đó. Họ chẳng làm gì cả. Đóng tất cả cửa sổ của mình lại họ nhìn vào sự
huy hoàng của các huy hoàng, họ nhìn vào bản thân mình - và điều đó là điều
huyền bí vô cùng và là hiện tượng đẹp đẽ vô cùng mà không cái gì giống như nó
đã bao giờ được đương đầu ở bất kì đâu khác, bởi vì bất kì khi nào bạn đi và
bất kì cái gì bạn thấy, báo cáo sẽ là điều gián tiếp.
Tôi có thể thấy khuôn mặt
của bạn nhưng mắt tôi sẽ là trung gian, chúng sẽ báo cáo, tôi sẽ không bao giờ
có khả năng thấy khuôn mặt bạn một cách trực tiếp, nó bao giờ cũng sẽ gián
tiếp. Tôi có thể đi tới bụi hồng và nhìn đoá hoa đẹp, nhưng cái đẹp đó là phụ
bởi vì mắt tôi sẽ báo cáo. Có một đại lí. Tôi không thể tới tiếp xúc trực tiếp
với hoa hồng, mắt bao giờ cũng có đó. Mùi sẽ tới qua mũi. Tôi có thể nghe chim
hót nhưng tiếng hót đó bao giờ cũng là phụ, và chừng nào bạn còn chưa biết trực
tiếp, làm sao bạn có thể biết tới Đạo trời? Làm sao bạn có thể biết tới điều
tối thượng? Chính mảnh đất của hiện hữu? Chỉ có một khả năng đi tới tiếp xúc
với điều tối thượng một cách trực tiếp, ngay lập tức, không qua trung gian nào,
và đó là - bên trong bản thân mình. Đóng tất cả mọi cửa ra vào và cửa sổ lại và
đi vào trong.
Điều đó đã xảy ra - Một
trong những người đàn bà trí huệ nhất đã từng được sinh ra là Rabia Al-Adawia.
Bà ấy là một người Sufi, nhà huyền môn vĩ đại, vô song; bà ấy ngồi trong chiếc
lều của mình với mắt nhắm làm cái gì đó - không ai biết cái gì. Nhà huyền môn
khác có tên Hassan đã ở cùng bà ấy, và lúc đó là buổi sáng, và mặt trời bắt đầu
lên, và cảnh tượng đẹp tuyệt trần, với chim hót và cây hạnh phúc lại thấy ánh
sáng và toàn thế giới mở hội buổi sáng. Hassan đứng đó, thế rồi ông ấy gọi
Rabia nói: "Rabia ơi, ra đây! Xem niềm vinh quang của Thượng đế! Buổi sáng
đẹp làm sao!" Rabia nói: "Hassan, thay vì thế làm ngược lại đi, ông
đi vào và xem bản thân Thượng đế. Ở đó ta biết là đẹp, cái đẹp của sáng tạo,
nhưng nó không là gì nếu so với cái đẹp ủa Đấng sáng tạo. Cho nên thay vì thế,
ông vào đi!
Tôi không biết liệu Hassan
có hiểu hay không, nhưng đây là toàn thể sự việc. Tri thức đi ra. Khi bạn đi ra
bạn có thể biết nhiều điều nhưng nó sẽ là thông tin gián tiếp.
Đó là điều khoa học là gì;
khoa học bao giờ cũng gián tiếp, nó không bao giờ có thể trực tiếp. Nó không
bao giờ có cái tươi tắn mà tôn giáo có thể có.
Một Einstein dù đi sâu thế
nào cũng sẽ vẫn ở cái ngoài. Ông ấy không thể đi tới cái tươi tắn của nó được.
Và Albert Einstein cảm thấy
trong những ngày cuối đời mình - ai đó hỏi ông ấy chỉ hai hay ba ngày trước khi
ông ấy chết: "Ông muốn là gì nếu Thượng đế cho ông cơ hội khác để tới thế
gian, ông muốn trở thành cái gì?" Ông ấy nói, "Lần sau thay vì trở
thành nhà khoa học, tôi muốn trở thành thợ ống nước. Tôi muốn sống cuộc sống
đơn giản và bình thường. Tôi muốn sống tuyệt đối vô danh với thế giới bên
ngoài. Tôi muốn sống ẩn danh, không ai biết về tôi, để cho không ai quấy rầy
tôi."
Ông ấy đang dò dẫm theo
hướng đúng. Ông ấy đang dò dẫm theo cùng hướng nơi ông ấy có thể trở thành vị
Phật một ngày nào đó.
Khi người ta chán ngán với
thế giới bên ngoài, người ta quay vào bên trong. Thế thì người ta muốn đóng mọi
cánh cửa và mọi cửa sổ và chỉ nghỉ ngơi bên trong.
Không dòm ngoài cửa, thấy
được Đạo Trời.
Khoa học cứ phát hiện ra
các luật và luật và luật nhưng nó không bao giờ phát hiện ra luật duy nhất, và
luật duy nhất là nghĩa của từ Đạo.
Khoa học sẽ cứ phát hiện ra
các thần và các thần và các thần nhưng sẽ không bao giờ phát hiện ra Thượng đế,
và Thượng đế là nghĩa của từ Đạo: chính điều tối thượng, bên ngoài cái đó không
cái gì tồn tại, bên ngoài cái đó không cái gì là có thể.
Khoa học cứ khám phá - và
mọi ngày khoa học càng khám phá, càng nhiều lí thuyết cũ bị bỏ đi và ném vào
sọt rác. Và điều này đang xảy ra cho mọi lí thuyết khoa học ngày này hay ngày
khác. Tất cả các lí thuyết khoa học đều mang định mệnh bị ném vào đống rác bởi
vì chúng không biết tới Luật duy nhất. Chúng chỉ là phản xạ trong hồ không phải
là trăng thật. Trăng thật là ở bên trong và toàn thể thế giới vận hành như tấm
gương.
Khi bạn thấy cái đẹp của
đoá hồng, bạn có bao giờ nghiền ngẫm về sự kiện liệu cái đẹp đó có đó trong đoá
hoa hồng hay cái đẹp đó do bạn rót vào? Bởi vì có những khoảnh khắc khi bạn đi
qua cùng bụi hồng mà chẳng cái gì xảy ra, chẳng cái gì đặc biệt, chẳng cái gì
phi thường, chỉ là hoa hồng bình thường, nhưng trong khoảnh khắc khác, trong
tâm trạng khác, trong trạng thái tâm trí khác, bỗng nhiên nó chú ý tới cái đẹp,
hương thơm, nó trở thành chiều hướng mới; cánh cửa mở ra, điều huyền bí được
khải lộ. Điều đang xảy ra là ở chỗ hoa hồng chỉ là tấm gương. Bất kì cái gì bạn
rót vào trong nó bạn đều thấy.
Bạn tới trước tấm gương,
bạn nhìn vào trong tấm gương, tấm gương đơn giản soi gương bạn, nó là bạn. Nếu
bạn xấu tấm gương báo cáo hình ảnh xấu, nếu bạn đẹp tấm gương báo cáo đẹp.
Có những khoảnh khắc khi
bạn xấu thế thì mọi hoa hồng đều trở thành xấu, có những khoảnh khắc khi bạn
buồn thế thì mọi trăng đều trở thành buồn, có những khoảnh khắc khi bạn trong
địa ngục thế thì thế gian trở thành địa ngục. Bạn tạo ra thực tại quanh mình,
bạn phóng chiếu thực tại quanh mình. Bạn có bên trong mình đấng sáng tạo, người
bằng việc biết cái đó mọi thứ đều được biết.
Đó là lí do tại sao trong
thẩm mĩ trong hàng thế kỉ các nhà tư tưởng đã từng cố gắng định nghĩa cái đẹp
là gì và đã không có khả năng định nghĩa được nó. Họ không thể định nghĩa được
bởi vì nó không tồn tại đó ở bên ngoài, nó là việc đổ ra từ bên trong. Hoa hồng
không đẹp, bạn tạo ra cái đẹp quanh nó. Nó giống như cái móc; bạn treo cái đẹp
lên nó, nó trở thành đẹp. Đó là lí do tại sao khi nhà thơ đi qua, đoá hồng đẹp
thế, bạn không thể quan niệm nổi! Và thế rồi một nhà khoa học đi qua tuyệt đối
quên lãng về sự kiện rằng hoa hồng đang nở, rằng hoa hồng tồn tại. Thế rồi một
doanh nhân đi qua; ông ta nhìn vào hoa hồng và nghĩ ông ta có thể kiếm được bao
nhiêu tiền từ nó nếu ông ta bán nó. Thế rồi đứa trẻ tới, ngắt hoa, chơi với nó
trong vài khoảnh khắc, quên nó, đi tiếp con đường...
Hoa hồng không là gì cả.
Chính bạn đem nghĩa vào cho nó.
Mọi người tới tôi mọi ngày
và họ hỏi đi hỏi lại theo cả nghìn lẻ một cách: Nghĩa của cuộc sống là gì? Nó
không có nghĩa. Bạn đem nghĩa vào cho nó. Bạn tạo ra nghĩa. Nghĩa không phải là
sự kiện khách quan, cho nên đừng tìm nghĩa và đừng kiếm nghĩa. Nếu bạn cứ tìm
bạn nhất định đi tới chân lí rằng cuộc sống là vô nghĩa.
Đó là cách các nhà hiện
sinh ở phương Tây đã đi tới khám phá rằng cuộc sống là vô nghĩa; và họ đã dừng
ở đó, điều rất không may. Ở phương Đông chúng ta đã đi tới biết điều đó nhưng
chúng ta không bao giờ dừng lại ở đó. Phật cũng đã đi tới biết rằng cuộc sống
là vô nghĩa nhưng ông ấy đã không bao giờ dừng ở đó. Đây là việc dừng nửa
đường! Cuộc sống là vô nghĩa, nhưng điều đó không có nghĩa là cuộc sống của bạn
cần là vô nghĩa, không; cuộc sống là vô nghĩa nếu bạn không đem nghĩa lại cho
nó. Không có nghĩa trong nó, nghĩa phải được trao cho nó. Bạn rót bản thể mình
vào trong cuộc sống, nó trở thành rung động với nghĩa. Thế thì nó ca hát, nó
nhảy múa, nó trở thành thiêng liêng.
Mọi người hỏi tôi,
"Thượng đế ở đâu? Thầy có thể chỉ cho chúng tôi được không?" Tôi
không thể chỉ cho bạn Thượng đế được, không ai có thể chỉ cho bạn được bởi vì
Thượng đế phải được tìm bên trong. Thế thì bạn có thể thấy ngài ở mọi nơi. Thế
thì trong hoa hồng bạn sẽ thấy ngài - hoa hồng sẽ trở thành tấm gương và bạn sẽ
thấy Thượng đế. Thế thì chim đang hót vào buổi sáng, và bỗng nhiên giọng hót
lấy hương vị chưa bao giờ có đó - bạn đóng góp vào nó, nó trở thành thiêng
liêng.
Một khi Thượng đế được khám
phá ra bên trong, mọi thứ trở thành thiêng liêng. Nếu bạn còn chưa phát hiện ra
nó bên trong và bạn cứ hỏi: Thượng đế ở đâu? và bạn cứ hỏi về địa chỉ của ngài,
bạn sẽ không bao giờ đạt tới được. Và tất cả các địa chỉ đều là sai bởi vì ngài
sống bên trong bạn, ngài không cần địa chỉ.
Có một câu chuyện hay, rất
cổ đại. Chuyện kể rằng Thượng đế đã tạo ra thế giới, mọi thứ đều đẹp, thế rồi
ngài tạo ra con người và mọi thứ trở thành khủng khiếp. Cùng con người địa ngục
bước vào. Và con người bắt đầu phàn nàn và làm cho Thượng đế gần như không thể
ngủ được hay làm được bất kì cái gì - nhiều người thế và họ cứ gõ cửa nhà ngài
suốt ngày đêm, và điều đó trở thành ác mộng. Ngài phải đã nghĩ nhiều lần tới
việc phá huỷ con người để cho an bình của thế giới có thể được giành lại.
Nhưng thế rồi một cố vấn
khôn ngoan nói, "Không cần phá huỷ con con người, ngài đơn giản đổi chỗ
trú ngụ thôi. Ngài đừng sống ở đây trên trái đất này. (Ngài đã quen sống ở đây,
bởi bạn ngài phải đổi chỗ trú ngụ đấy.) Thế là Thượng đế nói, "Ta phải đi
đâu đây?"
Một cố vấn nói: Điều tốt là
ngài đi lên Everest. Thượng đế nói, "Ông không biết đấy thôi. Chẳng chóng
thì chầy sẽ có người tên là Hillary, và ông ấy sẽ lên tới đó, và toàn thể vấn
đề sẽ bắt đầu lại. Thế rồi ai đó nói: "Lên mặt trăng vậy." Thượng đế
nói: "Ông không biết; những điều này sẽ chẳng ích gì nhiều đâu. Chẳng
chóng thì chầy con người sẽ lên tới mọi nơi. Gợi ý đâu đó cho ta mà con người
thậm chí sẽ không ngờ ta có đó." Thế rồi ông tư vấn già tới gần ngài, nói
cái gì đó vào tai ngài, và ngài gật đầu; ngài nói, 'Được đấy, ông đúng
rồi." Ông già này đã gợi ý: "Thế thì ngài trốn vào bên trong con
người đi. Con người sẽ không bao giờ nghi ngờ điều đó. Con người sẽ tìm và kiếm
ở mọi nơi ngoại trừ trong thế giới bên trong riêng của mình."
Câu chuyện này hay. Gần như
sự kiện. Không phải là chuyện mà là chân lí.
Không dòm ngoài cửa, thấy
được Đạo Trời.
Càng ra xa, càng biết ít.
Nhìn điều ngược đời, nhưng
chỉ có vẻ ngược đời thôi. Nó không phải vậy. Nó là sự kiện đơn giản. Người càng
theo đuổi tri thức càng ít biết. Đi tới các nhà bác học mà xem; họ biết nhiều
thế, nhưng nhìn vào mắt họ mà xem - thậm chí không một tia sáng le lói, quan
sát họ mà xem - thậm chí không một cử chỉ của việc biết; ở cùng với họ, và
chẳng có gì cả, họ hổng hoác, tuyệt đối giả, chẳng có gì bên trong, chỉ là sự
hổng hoác tô vẽ, hổng hoác được trang hoàng, trang hoàng bởi nhiều kinh sách,
lời của những người đã biết, nhưng tất cả đều vay mượn, tất cả đều chết, và bị
bao quanh bởi những lời chết này bản thân họ gần như đã trở thành chết.
Đi tới con người của tri
thức và bạn sẽ nếm bụi quanh người đó. Ông ấy có thể trông rất già và cổ đại,
gần như trong nấm mồ, nhưng bạn sẽ không tìm thấy cái tươi tắn vốn là một phần
của cuộc sống. Bạn sẽ không thấy dòng sông cuộc sống trong ông ấy, tuôn chảy,
bao giờ cũng đi vào cái không biết. Tri thức là giới hạn, dù nó bao la thế nào,
vẫn là giới hạn. Đó là lí do tại sao Socrates nói rằng: "Khi ta còn trẻ ta
nghĩ ta biết tất cả. Khi ta trở nên chín chắn chút ít ta bắt đầu ngờ vực, và
thế rồi ta đi tới nhận ra, rằng ta không biết nhiều thế đâu. Khi ta thực sự trở
nên già ta nhận ra rằng ta chẳng biết chút gì."
Chuyện xảy ra, nhà tiên tri
tại đền Delphi đã tuyên bố rằng: "Socrates là người trí huệ nhất trên trái
đất ngày nay." Những người nghe điều này đi tới Socrates và họ nói:
"Đây là điều ngược đời! Và chúng tôi phân vân! Thế thì ai đúng? Nếu nhà
tiên tri đúng thế thì thầy sai, nếu thầy đúng thì nhà tiên tri sai, và cả hai
không thể sai được. Chúng tôi tin vào thầy, chúng tôi đã biết thầy, chúng tôi
đã từng ở quanh thầy, chúng tôi đã cảm thấy rằng thầy phải đúng; bất kì điều gì
thầy nói cũng không thể là dối trá được. Nhưng nhà tiên tri này, nhà tiên tri
thiêng liêng, người ta chưa bao giờ thấy nói dối cả. Mọi điều đã được tiên đoán
bởi nhà tiên tri đền Delphic bao giờ cũng được thấy là đúng; cho nên chúng tôi
bị vào thế khó khăn, xin thầy giúp chúng tôi. Thầy nói thầy không biết gì, thực
tế thầy nói rằng thầy chỉ biết một điều - rằng thầy không biết gì, và thế rồi
nhà tiên tri này lại nói rằng Socrates là người trí huệ nhất trên thế
gian."
Socrates nói: "Phải có
hiểu lầm nào đó bởi vì ta biết về bản thân mình nhiều hơn bất kì ai có thể biết
về ta và ta nói lại với các ông rằng ta chẳng biết gì; nhiều nhất đến chừng mực
này ta có thể cho phép - rằng ta biết là ta không biết gì cả. Không cái gì hơn.
Các ông đi và hỏi lại nhà tiên tri mà xem, chắc có hiểu lầm nào đó rồi. Hoặc
các ông đã không diễn giải điều đó đúng hay cái gì đó khác... đi lại đi!"
Họ đi lại và họ hỏi nhà tiên tri và nhà tiên tri cười to và nói, "Đó là lí
do tại sao chúng ta nói ông ấy là người trí huệ nhất trên thế gian, bởi vì ông
ấy chỉ biết rằng ông ấy không biết gì."
Không có ngược đời. Đây là
chỉ dẫn về người trí huệ, rằng người đó đã đi tới nhận ra tri thức là vô tích
sự, rằng tri thức không biết gì, rằng tri thức là rác rưởi, rằng tri thức là vô
nghĩa dù nó khoe khoang là logic thế nào - đấy tất cả đều là khoe khoang.
Càng ra xa, càng biết ít.
Tại sao điều đó xảy ra? Bởi
vì bạn càng theo đuổi tri thức, bạn càng đi xa khỏi bản thân mình hơn. Bạn càng
cố tìm ra chân lí ở đâu đó bên ngoài bạn, bạn càng đi xa hơn, xa hơn khỏi cái
Toàn thể trong việc tìm cái Toàn thể, xa hơn khỏi bản thân mình trong việc tìm
kiếm bản thể đích thực của bạn, càng xa hơn khỏi tâm thức trong việc tìm kiếm
của bạn.
Bạn đang tìm cái gì? Cái mà
bạn đang đi tìm đã có bên trong bạn rồi. Tôn giáo là việc tìm cái đã có trong
hoàn cảnh rồi. Tôn giáo là việc tìm kiếm cái đã là thực tại rồi.
Nếu bạn đi xa hơn khỏi bản
thân mình bạn sẽ biết ngày càng ít hơn và bạn sẽ nghĩ bạn đang biết ngày càng
nhiều hơn. Kinh sách bạn sẽ biết, lời bạn sẽ biết, các lí thuyết, và bạn có thể
cứ vặn vẹo và bạn có thể cứ thêu dệt ngày càng nhiều thứ từ những lời này và
bạn có thể làm ra lâu đài trong hư không, nhưng chúng không thể nhiều hơn hư
không, trừu tượng - chúng không tồn tại, chúng được làm từ cùng chất liệu như
mơ. Ý nghĩ và mơ được tạo nên từ cùng chất liệu - chúng là gợn sóng trên bề mặt
của đại dương; chúng chẳng có gì bản chất trong chúng. Nếu bạn muốn biết chân
lí, quay về nhà đi.
Tôi bao giờ cũng nói tìm
kiếm và bạn sẽ lỡ, đừng tìm - và thấy, bởi vì chính nỗ lực tìm nghĩa là bạn đã
coi như đương nhiên là nó đã không có cùng bạn. Từ chính lúc ban đầu việc tìm
kiếm của bạn đã mang định mệnh thất bại. Một ngày nào đó, tìm, kiếm, tích luỹ
tri thức, sự kiện sẽ điểm ở nhà rằng bạn là kẻ ngu, rằng tốt hơn cả đáng là
trước khi đi vào thế giới bao la để tìm kiếm, thì phải nhìn vào bên trong đã.
Lại một chuyện ngụ ngôn nhỏ
về Rabia Al.Adawia. Một chiều tà, mặt trời đang lặn và hàng xóm thấy bà ấy đang
tìm cái gì đó trên phố - một bà già, mọi người đều yêu mến bà ấy; tất nhiên mọi
người đều coi bà ấy có chút ít dở hơi, nhưng bà ấy là người tuyệt vời - cho nên
họ xô lại để giúp bà ấy và họ hỏi, "Cái gì bị mất thế? Bà đang tìm cái
gì?" Bà ấy nói: Chiếc kim khâu. Ta làm việc may vá và ta đánh mất chiếc
kim. Giúp ta với! Quí vị đều là người tốt!" Thế là họ tất cả cùng tham gia
tìm kiếm.
Thế rồi một người, thấy ra
sự kiện là phố lớn thế và chiếc kim lại là vật nhỏ tí hon tới mức nếu họ không
biết đích xác chiếc kim bị rơi ở chỗ nào thì gần như không thể nào tìm được nó,
đi tới Rabia và nói: "Bà nói cho chúng tôi đích xác chỗ đi." Rabia nói:
"Đừng hỏi điều đó vì thực tế ta đã không đánh mất nó ở ngoài nhà ta, ta
đánh mất nó ở trong nhà."
Tất cả họ dừng tìm kiếm và
nói: "Bà dở hơi! Thế thì tại sao bà đi tìm ở đây, bên ngoài nhà, trên phố,
khi bà đã đánh mất nó bên trong nhà?" Rabia nói: "Ở đó tối lắm. Ở đây
còn chút ánh sáng, làm sao quí vị có thể tìm được khi có bóng tối? Và quí vị
đều biết ta là người nghèo, thậm chí không có đèn. Làm sao quí vị có thể tìm
được khi có bóng tối? Cho nên ta đi tìm ở đây bởi vì vẫn còn chút ánh sáng mặt
trời còn sót lại, dẫu sao cái gì đó có thể được làm để tìm chứ."
Mọi người bắt đầu cười. Họ
nói: "Bà đúng là dở hơi! Chúng tôi biết rằng trong bóng tối khó mà tìm,
nhưng thế thì cách duy nhất là mượn chiếc đèn từ ai đó và tìm nó ở đó."
Rabia nói: "Ta chưa bao giờ nghĩ quí vị lại khôn ngoan thế. Thế thì tại
sao quí vị bao giờ cũng tìm ở bên ngoài? Ta chỉ theo cách thức của quí vị thôi.
Nếu quí vị hiểu biết thế, sao quí vị không mượn ta chiếc đèn và tìm vào bên
trong? Ta biết chỗ đó có bóng tối..."
Chuyện ngụ ngôn này là có nghĩa.
Tìm kiếm của bạn ở bên ngoài: có lí do - bởi vì bên trong mọi thứ đều tối thế.
Bạn nhắm mắt lại và có đêm tối, bạn không thể nhìn thấy được cái gì; cho dù cái
gì đó được nhìn thấy nó cũng không là gì ngoài một phần của thế giới bên ngoài
được phản xạ trong cái hồ bên trong - ý nghĩa trôi nổi mà bạn đã thu thập ở bãi
chợ, những khuôn mặt tới rồi đi, nhưng chúng thuộc về thế giới bên ngoài. Chỉ
là phản xạ của cái bên ngoài, và bóng tối bao la. Người ta trở nên sợ. Thế rồi
người ta nghĩ tốt hơn cả là tìm ở bên ngoài, ít nhất còn có ánh sáng.
Nhưng đó không phải là vấn
đề. Bạn đã đánh mất chân lí của mình ở đâu? Bạn đã đánh mất bản thể mình ở đâu?
Bạn đã đánh mất Thượng đế của mình ở đâu? Bạn đã đánh mất hạnh phúc của mình,
phúc lạc của mình ở đâu? Đầu tiên nhìn vào bên trong sẽ tốt hơn trước khi bạn
đi vào mê cung vô hạn của thế giới bên ngoài. Nếu bạn không thể tìm được ở đó
thế thì được thôi - bạn đi và tìm ở bên ngoài. Nhưng điều đó chưa bao giờ xảy
ra. Bất kì ai đã nhìn vào bên trong bao giờ cũng thấy - bởi vì nó đã có đó rồi
- chỉ việc nhìn là cần, việc chuyển đổi, quay lại của tâm thức. Chỉ cái nhìn
sâu.
Càng ra xa, càng biết ít.
Bởi vậy thánh nhân, không
đi mà biết...
Trong chạy đuổi bạn bỏ lỡ,
phí cuộc sống, năng lượng, cơ hội. Đừng cứ chay quanh quẩn quanh quẩn quanh
quẩn. Dừng chạy lại, đó là điều thiền tất cả là gì: dừng chạy, ngồi yên tĩnh
với các cửa sổ và cửa ra vào đóng lại, lắng đọng vào bên trong, nghỉ ngơi ở bên
trong, thảnh thơi ở bên trong, để cho rối loạn lắng đọng lại chút ít, thế rồi bắt
đầu nhìn.
Nó sẽ giống như dò dẫm lúc
ban đầu, lúc ban đầu bóng tối sẽ quá nhiều, nhưng khi bạn trở nên quen thuộc
với nó, bóng tối bắt đầu thay đổi phẩm chất của nó.
Nó cũng giống như khi bạn
đi từ bên ngoài và lúc đó trời nóng và mặt trời đã quá gắt và bạn đi vào bên
trong phòng nhà bạn, bạn không thể thấy được; mọi thứ trông tối bởi vì mắt đã
bị hội tụ với mặt trời, mắt đã quen với quá nhiều ánh sáng. Một thay đổi bất
thần - mắt sẽ cần chút thời gian để lắng đọng, có vậy thôi. Kiên nhẫn là cần
thiết. Khi bạn đi vào bên trong chẳng cái gì sẽ được nhìn thấy - đừng mất kiên
nhẫn, đừng nói chỉ sau một phút rằng mọi điều chư Phật nói đều giả, họ nói bên
trong là phúc lạc nhưng mình chẳng thấy gì cả.
Điều đó đã xảy ra cho một
trong những nhà tư tưởng xuyên thấu nhất mà phương Tây đã từng tạo ra, điều đó
đã xảy ra cho David Hume. Cứ bắt gặp đi bắt gặp lại các giáo huấn phương Đông -
Đi vào bên trong; Nhắm mắt lại; Nhìn - một hôm ông ấy nghĩ: Thì thử cái xem
sao, vẫn biết rõ rằng chẳng có gì cả. Những người phương Đông này điên, phi
logic, bất hợp lí, hướng nội, tự lừa bản thân mình và chẳng ai khác cả. Ông ấy
nói, "Tốt hơn cả ít nhất mình cũng thử xem sao." Ông ấy nhắm mắt lại
chỉ một phút - thế rồi ông ấy mở mắt ra và viết vào nhật kí của mình: Chẳng có
gì ngoài bóng tối, vài ý nghĩ trôi nổi, vài cảm giác, và chẳng cái gì khác...
Đừng nóng vội thế. Đợi đã.
Để mọi thứ lắng đọng bên trong, điều đó cần thời gian. Bạn đã không làm lắng
đọng chúng trong bao nhiêu kiếp rồi, việc lắng đọng sẽ mất chút thời gian, chút
ít kiên nhẫn - và chẳng cái gì khác được cần tới. Bạn không cần thử lắng đọng
chúng bởi vì điều đó sẽ lại khuấy động chúng, bạn sẽ kích động chúng nhiều hơn;
bạn đơn giản không làm gì cả, bởi vì điều đó sẽ khuấy động chúng lại. Đó là
nghĩa của cụm từ hay của Lão Tử vô vi, làm bằng vô làm. Bạn đơn giản không làm
gì và nó xảy ra; đó là làm bằng vô làm. Chỉ nhắm mắt lại và chờ đợi và chờ đợi
và chờ đợi và bạn thấy các tầng rối loạn sụp xuống, lắng đọng, mọi sự rơi vào
chỗ của chúng, và im lặng; và dần dần bóng tối trở thành ánh sáng, và cái Một
đó được biết tới bởi việc biết tất cả mọi cái được biết. Bởi vì cái Một đó là
hạt mầm. Cái đó là ngươi, Swetaketu.
Bởi vậy thánh nhân, không
đi mà biết,
Không thấy mà hiểu, không
làm mà nên.
Và đó là sự hoàn thành lớn
nhất, điều được hoàn thành mà không làm bất kì cái gì chút nào. Nhớ lấy, bất kì
cái gì bạn có thể làm cũng đều không thể vượt ra ngoài bạn, làm sao nó có thể
vượt ra ngoài được? Nếu bạn làm nó, nó sẽ vẫn còn thấp hơn bạn, nó không thể
lên cao hơn bạn được. Bất kì cái gì bạn làm cũng sẽ là một phần của tâm trí
bạn, nó không thể là siêu việt được. Bất kì điều gì bạn làm cũng sẽ được làm
bởi bản ngã, nó không thể là bản thể bạn. Cho nên vô làm là cách duy nhất để
làm nó.
Ngồi tĩnh lặng, ngồi yên
tĩnh, không làm gì cả, và cỏ tự nó mọc lên. Và thế thì nỗ lực, việc làm, là
tĩnh lặng. Im lặng bao la và mênh mông thế giáng xuống bạn... tôi đọc một bài
thơ Nhật Bản vài ngày trước đây; từng dòng của nó xuyên thấu vào tôi rất sâu,
đến từ một phần trái tim tôi, nó viết:
Không chim hót núi còn tĩnh
lặng hơn.
Khi không có việc làm, ngay
cả chim cũng không hót nữa, không cái gì có đó, mọi thứ bình thản và yên tĩnh,
bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết rằng không cái gì đã bị thiếu từ chính ban
đầu; cái bạn đang tìm kiếm - bạn bao giờ cũng đã là cái đó. Bỗng nhiên bạn nhận
ra rằng Thầy của các Thầy đang ngồi đó trên ngai vàng. Và bạn bắt đầu cười.
Bokuju đã trở nên chứng ngộ
- chứng ngộ sao? Đừng coi từ này rất nghiêm chỉnh, nó chẳng là gì nghiêm chỉnh
cả, nó là điều tối thượng trong vui đùa, nó là trò đùa cuối cùng - Bokuju trở
nên chứng ngộ và ông ấy bắt đầu cười, cái cười bụng, ông ấy trở nên điên. Mọi
người tụ tập lại, và họ bắt đầu hỏi, "Thầy làm sao thế ạ? Xin thầy nói cho
chúng tôi, điều gì đã xảy ra?" Ông ấy nói, "Chẳng cái gì xảy ra cả,
và ta đã điên, tìm và kiếm cái đã có rồi trong ta."
Bất kì khi nào mọi người
hỏi Bokuju, "Thầy đã làm gì khi thầy trở nên chứng ngộ?" Ông ấy nói:
"Ta cười, và ta cười to." Và ông ấy nói: "Ta vẫn không hết cười
được. Dù các ông nghe thấy hay không, đấy không phải là vấn đề, ta vẫn không
hết cười. Trò đùa làm sao! Ông đã có nó rồi và ông cứ đi tìm và kiếm và ông
không thể nào tìm được nó, không phải bởi vì nó không có đó mà bởi vì nó có đó
nhiều và gần ông tới mức ông không thể nào thấy được nó."
Mắt có thể thấy cái ở xa,
mắt có thể thấy cái ở một khoảng cách bởi vì mắt cần viễn cảnh, tay có thể chạm
cái khác và ở xa, tai có thể nghe cái ở bên ngoài - đó là lí do tại sao Lão Tử
nói ông ấy hiểu mà không nhìn, bởi vì làm sao bạn có thể thấy bản thân mình
được? Ai sẽ thấy ai? Người thấy và cái được thấy là một ở đó, không cần mắt
nào. Ai sẽ làm? Ai sẽ làm nỗ lực? Đó sẽ chỉ giống như chó đuổi đuôi nó, điều đó
đơn giản sẽ là ngu xuẩn....
Và đây là điều bạn đang
làm, săn đuổi đuôi của mình. Dừng lại và nhìn, nó là đuôi của riêng bạn, không
cần săn đuổi nó, và bằng săn đuổi bạn sẽ không bắt được nó bao giờ cả. Bằng săn
đuổi bạn bỏ lỡ, bằng không săn đuổi bạn hoàn thành.
...không làm mà nên.
Và thế thì thời gian biến
mất. Thế thì việc biết biến mất, bởi vì việc biết có đó để biết cái gì đó, việc
biết là khả năng để biết; một khi bạn đã biết rồi, phỏng có ích gì trong khả
năng còn lại, nó đơn giản biến mất.
Thời gian biến mất bởi vì
thời gian có đó vì bạn thất vọng, nó được tạo ra từ thất vọng của bạn, để cho
bạn có thể hi vọng vào tương lai và bằng cách nào đó chịu đựng thất vọng và
dung thứ thất vọng, và tự an ủi bản thân mình.
Tâm trí và thời gian không
phải là hai điều mà là các khía cạnh của một điều. Khi cả hai biến mất lần đầu
tiên bạn hiện hữu trong vinh quang tuyệt đối. Nói điều đó theo cách này - bạn
đã trở thành thượng đế, vị Phật.
Và hỏi người đã thức tỉnh
mà xem: tất cả họ đều nói cùng một điều, rằng điều đó phải được hoàn thành mà
không có nỗ lực nào về phần bạn. Đó là nỗ lực đã tạo ra toàn thể đống lộn xộn.
Vứt bỏ mọi nỗ lực, chỉ ngồi
im lặng nhìn vào bên trong - vô vi.